Saturday, March 28, 2020

Toán nào cho hình này đây? - FRACTALS.


Toán nào cho hình này đây? - FRACTALS.

http://fractalfoundation.org/


Bình Long Anh Dũng, 2020













BÌNH LONG ANH DŨNG

(1972)


LỜI MỞ ĐẦU


Sách này nhắc lại những diễn biến đầy kinh hoàng và thảm khốc tại chiến trường Bình Long, để tưởng nhớ và vinh danh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa anh hùng đã hy sinh và bị thương, cũng như việc cố thủ An Lộc và giải tỏa Quốc lộ 13, đường dẫn tới thị xã nhỏ bé này.

Mọi sự kiện đều được ghi nhận một cách trung thực và khách quan, từ những ngày đầu cuộc tấn công bất ngờ của Cộng Sản Bắc Việt vào những tiền đồn cực Bắc Tỉnh Bình Long, việc lui binh của các đồn này, đến cuộc tử thủ An Lộc một tuần sau đó. Tiếp đó, là những ngày phản công vô cùng anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để chiến thắng trên toàn thị xã An Lộc.

Bài viết dựa trên những điều mắt thấy tai nghe tại chiến trường của tác giả và những bạn bè, với những chi tiết đối chiếu còn ghi lại trong Nhật ký Hành quân của Sư đoàn 5 BB về trận An Lộc 1972.

         Vì trận đánh quá lớn trên một trận tuyến khá rộng, người viết không thể ghi lại mọi chi tiết xảy ra, nên không khỏi có những thiếu sót và chủ quan. Kính mong quí vị độc giả rộng lòng tha thứ.

Người viết đến An Lộc ngày 04 tháng 11 năm 1971 và ra khỏi An Lộc ngày 08 tháng 7 năm 1972, sau khi bàn giao Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Bình Long cho người kế nhiệm.

          Garden Grove, ngày 13 tháng 4 năm 2020.

                                            Hoàng Văn Thành

                          

 



































Chương 1


MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972



Năm 1969, Tổng thống Mỹ Richard Nixon dùng hội nghị Ba lê giữa Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), Mỹ, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), chủ trương chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” rút dần quân đội Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam.

Đầu năm 1972, hầu hết quân Mỹ và đồng minh của VNCH đã rút các đơn vị chiến đấu về nước. Chỉ còn 65.000 quân gồm cả 5.300 Cố vấn Mỹ trên toàn miền Nam, đang chờ hồi hương.3 

Trong mưu đồ xâm lăng Miền Nam, CSBV không sợ Mỹ can thiệp nữa, nên gởi từ Miền Bắc vào Miền Nam 14 Sư đoàn (CSBV gọi là Công trường) chính quy và 26 Trung đoàn yểm trợ, khoảng 120 ngàn quân với 580 xe thiết giáp và 600 xe phòng không đủ loại, các đại pháo 130 ly, các giàn phóng hoả tiễn 107, 122 ly và súng phóng hoả tiễn cầm tay SA7.3

Sự chuẩn bị kỹ càng lần này với hy vọng sẽ chiếm trọn Miền Nam. Nếu không đạt được mục đích ấy thì cũng chiếm được tỉnh Bình Long để làm thủ đô của Chính phủ MTGPMN, rồi sau đó sẽ đánh Sài Gòn để đạt lợi thế trong hội nghị Ba Lê.3

Cuộc tấn công Hè 1972 được CSBV coi là một chiến dịch tổng hợp:

- Chiến trường Quảng Trị do chính miền Bắc chỉ huy, gọi là Chiến dịch hợp đồng binh chủng.

- Miền Trung được chia làm hai chiến trường:  Vùng Cao nguyên do Bộ tư lệnh Mặt trận Tây nguyên chỉ huy. Vùng Duyên hải do Tư lệnh Quân khu 5 Việt cộng chỉ huy.

- Chiến trường Miền Nam do Trung ương cục Miền Nam chỉ huy, gọi là Chiến dịch Nguyễn Huệ.1 

Cuối tháng 3, CSBV bắt đầu tấn công cùng lúc Quảng Trị, Kontum và Bình Long.

Ngày 29 tháng 3, hai Sư đoàn với xe tăng từ đất Bắc vượt sông Bến Hải tấn công vùng phi quân sự, Quảng Trị và uy hiếp Huế; hai Sư đoàn khác đánh chiếm vùng Ashau dự trù cắt đứt đường bộ, thuộc Quân khu I. 

Ngày 01 tháng 4, bốn Sư đoàn với xe tăng tấn công vùng 3 biên giới dự trù chiếm Kontum; một Sư đoàn khác tấn công tỉnh Bình Định, Quân khu II. 

Ngày 02 tháng 4, bốn Sư đoàn với xe tăng từ đất Miên vượt biên giới Việt Miên tấn công căn cứ Thiện Ngôn tỉnh Tây Ninh, Lộc Ninh và An Lộc tỉnh Bình Long, dự trù chiếm tỉnh Bình Long để ra mắt chính phủ MTGPMN, thuộc Quân khu III. 

Tại Quân khu IV, CSBV dùng lực lượng địa phương quấy rối để cầm chân các Sư đoàn VNCH tại chỗ, không tiếp ứng cho các Quân khu khác.3












Chương 2


TỈNH BÌNH LONG



          1. Năm 1956, Tổng thống Ngô Ðình Diệm thành lập Tỉnh Bình Long gồm 3 quận Lộc Ninh, An Lộc và Chơn Thành. Tỉnh lỵ Bình Long đặt tại quận lỵ An Lộc, cách Sài Gòn 110 cây số về phía Bắc. 

Về ranh giới, Tỉnh Bình Long nằm giáp biên giới Việt Miên về phía Bắc và Tây Bắc, Đông giáp Tỉnh Phước Long, Nam giáp Tỉnh Bình Dương và Tây giáp Tỉnh Tây Ninh. Diện tích là 2.140 cây số vuông, với 80% đất đai là rừng già, kể cả các đồn điền trồng cao su. Bình Long với rừng rậm và đất đỏ, là nơi có nhiều rừng cao su nhất nước. Rừng Bình Long có nhiều loại gỗ qúy như cẩm lai, gõ, sao, dầu, thau lau, tre …

Về địa thế, Bình Long là một tỉnh thuộc miền cao nguyên Đông Nam phần, không có núi. Lộc Ninh có đồi cao nhất 203 thước và những đồi thấp hơn chạy từ Bắc xuống Nam, như đồi 178 phía Đông Bắc, đồi 177 và đồi 150 phía Tây Bắc. An Lộc có đồi 100 phía Tây, đồi Đồng Long phía Bắc, đồi Gió và đồi 169 phía Đông Nam. Phi Trường Quản Lợi là cao điểm ở phía Đông. 

Về sông ngòi, phía Tây có sông Sài gòn chia ranh 2 tỉnh Tây Ninh và Bình Long. Phía Đông có sông Bé, chia ranh 2 tỉnh Bình Long và Phước Long. Hai sông này lòng hẹp, nhiều đá và lưu lượng ít về mùa nắng, nên không sử dụng được. Toàn tỉnh chỉ có suối cạn về mùa nắng, riêng suối Cần Lê khá rộng, nước chảy quanh năm.

Về khí hậu, Bình Long có hai mùa rõ rệt. Mùa nắng quá oi bức, từ tháng Mười Hai đến tháng Tư. Mùa mưa thì đêm lạnh ngày nóng, từ tháng Năm đến tháng Mười Một. 

Về giao thông, đường bộ là huyết mạch kinh tế của tỉnh, gồm có:

Quốc lộ 13 (QL13) là trục giao thông chính, cắt dọc Bình Long từ Bắc xuống Nam, từ Snoul bên kia biên giới Việt Miên xuyên qua Lộc Ninh, cầu Cần Lê, An Lộc, Xa Cam, Xa Trạch, Xa Cát, Tân Khai, Tàu Ô, Chơn Thành, Lai Khê (Bình Dương), đến cầu Bình Lợi, vào Sài gòn.

Liên tỉnh lộ 13 (LTL13) nối Tây Ninh qua Chơn Thành tới cầu Sông Bé, dài 50 cây số.

Quốc lộ 14 nối quận Lộc Ninh với quận Bố Đức, tỉnh Phước Long về phía Đông, dài 17 cây số.

Liên tỉnh lộ 14, từ Trị Tâm, qua Tống Lê Chân, tới gần biên giới, dài 65 cây số. 

Liên tỉnh lộ 17 nối QL13 từ giữa An Lộc và Lộc Ninh đến ấp Tà Khiết Krom, dài 20 cây số.

Đường hàng không đáp ứng mau lẹ các nhu cầu quân sự. Tỉnh Bình Long có 6 phi trường, nhưng 3 phi trường sau có liên hệ đến trận Bình Long:

Phi trường Lộc Ninh của đồn điền cao su, phi cơ loại C130 đáp được.

Phi trường An Lộc thuộc quân và dân sự, dùng cho các phi cơ loại nhẹ.

Phi trường Quản Lợi của đồn điền cao su, các loại phi cơ, trừ phản lực, đều dùng được. 

Về dân số, đầu năm 1972 là 84.000 người, gồm 21.000 ở Lộc Ninh, 44.000 ở An Lộc và 19.000 ở Chơn Thành. Một phần tư là người Thượng sống rải rác, ba phần tư là người Kinh và một số ít người Hoa. Đa số dân sống trong các đồn điền với nghề làm cao su, một số ít sống tại tỉnh lỵ và các quận lỵ với nghề tiểu thương và khai thác lâm sản. Lúc chiến trận xảy ra, thị xã An Lộc có khoảng 23.000 dân.

Tỉnh Bình Long tuy nhỏ, nhưng quan trọng cho thủ đô Sài Gòn. QL13 là đường tiến sát chính cho quân CSBV từ đất Miên đánh vào Sài Gòn.1 

2. Sư đoàn 5 BB trách nhiệm duy trì an ninh 3 tỉnh: Bình Dương, Bình Long và Phước Long.  

Sư đoàn có các đơn vị cơ hữu là:

- 3 Trung đoàn Bộ binh: 7, 8, 9.  

- Thiết đoàn 1 Kỵ binh. 

- 3 Tiểu đoàn Pháo binh 105 ly: Tiểu đoàn 51 yểm trợ Trung đoàn 7, Tiểu đoàn 52 yểm trợ Trung đoàn 8, Tiểu đoàn 53 yểm trợ Trung đoàn 9. 

- Tiểu đoàn 50 Pháo binh 155 ly yểm trợ tổng quát. 

- Ðại đội 5 Trinh sát và các đơn vị yểm trợ. 

Bộ tư lệnh Sư đoàn 5 BB đóng tại Lai Khê (tỉnh Bình Dương), do Chuẩn tướng Tư lệnh Lê Văn Hưng chỉ huy. Bộ chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 5 Hành quân đóng tại An Lộc (tỉnh lỵ Bình Long), do Ðại tá Tư lệnh phó Lê Nguyên Vỹ chỉ huy.

Sư đoàn 5 BB trực thuộc Quân đoàn 3. Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 đóng tại tỉnh lỵ Biên Hoà, do Trung tướng Nguyễn Văn Minh chỉ huy.

Ngày 01 tháng 3, để bảo vệ an ninh lãnh thổ, Chuẩn tướng Hưng đã phối trí lực lượng như sau: 

Trung đoàn 7 BB tại Phú Giáo (Bình Dương) do Trung tá Lý Ðức Quân chỉ huy, hoạt động ngăn chặn xâm nhập của CSBV theo hành lang Sông Bé từ đất Miên vào chiến khu D. 

Trung đoàn 8 BB tại Dầu Tiếng (Bình Dương) do Ðại tá Mạch Văn Trường chỉ huy, hoạt động ngăn chặn xâm nhập của CSBV theo hành lang sông Sài Gòn từ đất Miên vào chiến khu C.

Trung đoàn 9 BB (trừ 1 Tiểu đoàn) do Ðại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy, được tăng phái Thiết đoàn 1 Kỵ binh (trừ 1 Chi đoàn) do Trung tá Nguyễn Ðức Dương chỉ huy, và Tiểu đoàn 74 Biệt động quân Biên phòng do Thiếu tá Hùng chỉ huy, hợp thành Chiến đoàn 9 BB, đóng tại Quận lỵ Lộc Ninh, hoạt động bảo vệ biên giới Việt Miên, ngăn chặn xâm nhập của CSBV theo QL13 từ đất Miên vào Thủ đô Sài Gòn.4

3. Ngoài ra, an ninh của tỉnh Bình Long còn được quân cơ hữu Địa phương quân, Nghĩa quân và Cảnh sát bảo vệ do Tỉnh trưởng Đại tá Trần Văn Nhựt chỉ huy.1 


pastedGraphic.png


Bình Long - Saigon










Chương 3


KẾ HOẠCH CỦA CSBV TẠI QUÂN KHU III

     

 

1. Mục tiêu chính của CSBV tại Quân khu III là chiếm An Lộc, tỉnh lỵ Bình Long, trước ngày 20 tháng 4. Nếu An Lộc thất thủ Cộng quân sẽ tiến về Sài gòn theo QL13.3

Kế hoạch chiếm An Lộc được dự trù với 4 Công trường và những đơn vị yểm trợ. Lúc này, các đơn vị CSBV vẫn còn ngụy trang dưới danh xưng MTGPMN, nhưng được bổ sung quân từ Miền Bắc vào Miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh.3 Quân CSBV tham chiến trận Bình Long có:

Công trường 5 gồm 3 Trung đoàn E6, 174, và 275 khoảng 9.230 người.

Công trường 7 gồm 3 Trung đoàn 141, 165, và 209 khoảng 8.600 người.

Công trường 9 gồm 3 Trung đoàn 271, 272 và 95 khoảng 10.680 người.

Công trường Bình Long thuộc MTGPMN gồm  Trung đoàn 205 Tùng thiết và Lữ đoàn 429 Đặc công khoảng 1.570 người.

Sư đoàn Pháo binh 69 gồm Trung đoàn 42 Pháo binh, Trung đoàn 208 Hỏa tiễn, Trung đoàn 271 Phòng không khoảng 3.830 người.

Các Thiết đoàn Chiến xa 202 và 203 khoảng 800 người.

Trung đoàn 101 biệt lập khoảng 760 người.

Quân CSBV tham chiến tại mặt trận Bình Long khoảng 35 tới 36 ngàn. Trong suốt chiến dịch, Cộng quân đã nhận thêm 15.000 quân bổ sung.3 

2. Ngày 30 tháng 3, Tướng Trần Văn Trà, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Tiền phương R (MTGPMN), ban lệnh vượt biên cho các công trường và các đơn vị yểm trợ, từ vùng Đông bộ Miên tấn công các tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Phước Long. Cuộc tấn công thuộc chiến dịch Nguyễn Huệ do CSBV phát động cho toàn thể miền Nam nhằm đánh chiếm theo QL13, các tỉnh Bình Long, Bình Dương và uy hiếp thủ đô Sài gòn.1

Các Công trường được phân nhiệm như sau:

Công trường C30B tấn công căn cứ Lạc Long, tỉnh Tây Ninh.1

Công trường 5 CSBV đánh chiếm quận Lộc Ninh, rồi di chuyển đến An Lộc.3

Công trường 7 CSBV ngăn chặn tiếp tế và viện binh của quân VNCH bằng cách cắt đứt QL13 phía Nam An Lộc từ Chơn Thành tới An Lộc.3

Công trường 9 CSBV tấn công Trung đoàn 52 BB ở Tây Bắc An Lộc, rồi đánh chiếm An Lộc.3

Công trường Bình Long gồm hai trung đoàn địa phương tiến từ miền Ðông Bắc đánh xuống An Lộc.1

Các công trường này được sự yểm trợ của Sư đoàn 69 Pháo binh, Trung đoàn 202 và 203 Thiết giáp, Lữ đoàn 429 Đặc công và những đơn vị chuyên môn hậu cần.3

3. Tình hình Quân khu III 

Cuối tháng 3 năm 72, những nguồn tin từ tù binh, tài liệu tịch thu tại vùng biên giới Việt Miên và tin không thám đã phát giác nhiều dấu vết di chuyển, những căn cứ cấp đại đội, tiểu đoàn của địch mới thiết lập trong rừng phía Tây Bình Long. Tướng Minh cho rằng Bình Long sẽ là chiến trường chính và đã quyết định tăng cường nhiều đơn vị cho Bình Long.

Ngày 28 tháng 3, Tướng Minh đã cho Trung đoàn 52 BB (-) gồm Tiểu đoàn 1/48 và Tiểu đoàn 2/52 thuộc Sư đoàn 18 BB từ Tây Ninh đến tăng cường cho Sư đoàn 5 BB và 1 Pháo đội hỗn hợp (105 và 155 ly) do Trung tá Nguyễn Bá Thịnh chỉ huy thiết lập căn cứ hoả lực Hùng Tâm, 15 cây số Tây Bắc An Lộc, để yểm trợ hoả lực cho Lộc Ninh và An Lộc.

Cùng ngày, Tướng Hưng đã cho Trung đoàn 7 BB (-) gồm Tiểu đoàn 2/7 và Tiểu đoàn 3/7 thuộc Sư đoàn 5 từ Phú Giáo đến tăng cường căn cứ Charlie, 7 cây số Tây Bắc An Lộc, để yểm trợ hỏa lực cho An Lộc và căn cứ Tống Lê Chân.

Ngoài ra, một trung đội Công binh đã được phái tới An Lộc để sửa lại khu trại của tiểu khu cũ làm Bộ tư lệnh Tiền phương cho Sư đoàn.

Ngày 31 tháng 3, Tướng Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3 khẩn cấp họp các cấp chỉ huy về tình hình Quân khu III sẽ chuyển biến bất ngờ.1


pastedGraphic_1.png

Trung tướng Nguyễn Văn Minh

pastedGraphic_2.png


Sơ đồ CSBV tấn công tỉnh Bình Long





Chương 4


TRẬN LỘC NINH

(30 cây số Bắc An Lộc)

04-4-1972


Ngày 03 tháng 4, Đại tá Vĩnh, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 9 tại Lộc Ninh đã báo cáo Tướng Hưng, Tiểu đoàn 3/9 (-) hoạt động ở Tây Nam Lộc Ninh đã bắt được nhiều cuộn giây điện thoại dã chiến. Chắc địch đang chuẩn bị một chiến trường lớn.1 

Ngày 04 tháng 4, lúc 17g45, Đại đội 9 Trinh sát của Chiến đoàn 9 Sư đoàn 5 BB VNCH chạm nặng và bất ngờ với Trung đoàn E6 Công trường 5 CSBV tại 4 cây số Tây Lộc Ninh. Đại đội bị địch tiêu diệt nhanh chóng. Một chiến sĩ truyền tin bị thương còn sống sót đã báo cho Bộ chỉ huy Chiến đoàn 9 về bộ binh và chiến xa địch đang tiến về Lộc Ninh. Chiều 06 tháng 4, lúc 18g30, người chiến sĩ này mới im lặng.3

Tại Bộ chỉ huy Chiến đoàn 9 (-), Đại tá Vĩnh ra lệnh ứng chiến cho các đơn vị và Chi khu Lộc Ninh.

Đêm 04 tháng 4, Tiểu đoàn 3/9 (-) báo cáo nghe thấy tiếng động của cơ giới. Đại tá Vĩnh lệnh cho Trung tá Dương, ở ngã ba Lộc Tấn, điều động một đơn vị thiết giáp về ngay ban đêm để phòng thủ Căn cứ Lộc Ninh. 

Ngày 05 tháng 4, lúc 03 giờ sáng, CSBV pháo kích vào Quận lỵ Lộc Ninh và gia tăng bắn hỏa tiễn 107 ly vào các căn cứ quân sự dọc theo phi trường Lộc Ninh.

03g30, Chi đoàn 3/1 Thiết kỵ hỗn hợp do Trung úy Lê Văn Hùm, Chi đoàn trưởng chỉ huy và 1 Đại đội BB của Tiểu đoàn 2/9 tùng thiết đang ở vùng ngã ba Lộc Tấn, 6 cây số Bắc Lộc Ninh, được gọi về.

04 giờ, Trung tá Dương, Thiết đoàn trưởng báo cáo Đại tá Vĩnh, Chi đoàn 3/1 trên đường về khi tới cua Chùm Bao, một cây số Bắc Lộc Ninh đã bị mìn, 3 thiết vận xa bị cháy, 3 binh sĩ chết. Chi đoàn không tiến được.1

06g50, từ phía Tây Lộc Ninh, CSBV tung vào chiến trường Công trường 5, gồm có Trung đoàn 275, Trung đoàn 174 và Trung đoàn E6, được tăng cường Trung đoàn Chiến xa 203, Đoàn Đặc công 429, Sư đoàn 69 Pháo binh gồm Trung đoàn Phòng không 271, Trung đoàn Pháo binh 42D và Trung đoàn 208 Hoả tiễn. Quân CSBV khoảng 14.000 người.3

Tại Lộc Ninh, VNCH có Chiến đoàn 9 (-) của Sư đoàn 5 BB do Đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy (gồm Tiểu đoàn 2/9, Tiểu đoàn 3/9 thuộc Trung đoàn 9), Thiết đoàn 1 (-) gồm Chi đoàn 3/1 Thiết kỵ và Chi đoàn 1/1 Chiến xa (14 M41 và 26 Thiết quân vận) thuộc Lữ đoàn 3 Kỵ binh do Trung tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy, Tiểu đoàn 74 Biệt động quân Biên phòng do Thiếu tá Hùng chỉ huy, cùng với lực lượng của Chi khu Lộc Ninh do Thiếu tá Nguyễn Văn Thịnh, Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng chỉ huy và Tiểu đoàn Pháo binh hỗn hợp (105 ly và 155 ly). Quân VNCH khoảng 3.000 người do Đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy tổng quát.1

08 giờ, Cộng quân từ đồi 150, một cây số Tây Bắc Lộc Ninh, tràn vào khu phố chợ Lộc Ninh. 

Cùng lúc, Cộng quân đột nhập xã Lộc Thiện, một cây số Tây Nam Lộc Ninh, bắn vào căn cứ Lộc Ninh, làm nhiều binh sĩ chết và bị thương. 

Cộng quân tấn công từ phía Tây với lực lượng bộ binh hùng hậu dẫn đầu bằng xe tăng, pháo binh, hỏa tiễn và súng cối vào Căn cứ Lộc Ninh, nơi đặt Bộ chỉ huy Chiến đoàn 9, vị trí Tiểu đoàn 53 Pháo binh

và Chi khu Lộc Ninh. Các vị trí quân sự này đều nằm dọc theo hông phiá Tây của phi trường Lộc Ninh.1 

Trận tấn công dữ dội vào Lộc Ninh làm cho Tướng Minh tin rằng đây là trận mở đầu của mặt trận Bình Long và rất cấp bách. Tướng Minh chỉ thị tất cả lực lượng Không quân có sẵn cho các đơn vị đang chiến đấu ở Lộc Ninh.3

Các phi tuần khu trục từ Biên Hòa đã lên oanh kích những nơi địch tập trung. Nhờ Không quân yểm trợ tối đa, quân trú phòng đã cầm cự được ngày đầu. Cộng quân đã dồn quân trú phòng vào 2 vị trí phòng thủ tại phía Nam (Căn cứ Lộc Ninh) và phía Bắc (Chi khu Lộc Ninh) của phi trường.3

09 giờ, Tướng Hưng lệnh cho Trung tá Dương, ở ngã ba Lộc Tấn, đem ngay Chi đoàn 1/1 (9 M41 và 5 M113) từ biên giới về căn cứ Hoa Lư ở ấp Thạnh Vinh đón Tiểu đoàn 74 BĐQ Biên phòng về giải toả nút chận cho Chi đoàn 3/1, rồi về cố thủ Lộc Ninh. 

12 giờ trưa, các đơn vị được gọi về đã có mặt tại Lộc Tấn, Trung tá Dương chia quân làm 2 cánh. 

- Cánh Phải, Thiết đoàn 1 (-) kéo theo 4 khẩu pháo 105 ly, Tiểu đoàn 74 BĐQ Biên phòng, chiếm đồi 177 và đồi 150, phía Tây QL13, rồi vào Lộc Ninh.

- Cánh Trái, Tiểu đoàn 2/9 chiếm đồi 178, phía Đông QL13, rồi vào Lộc Ninh.

Cánh Phải tấn công đồi 177, bị địch phản công mạnh. Trung tá Dương cho lệnh lui ra để phi cơ oanh kích. Xế chiều, Cánh Phải rút về ngã ba Lộc Tấn đóng quân đêm. 

Cánh Trái đã tới gần đồi 178 và đã đóng quân đêm tại đó. 

Ngày 06 tháng 4, sau khi xin hủy bỏ những gì không cần thiết ở ngã ba Lộc Tấn, Trung tá Dương bọc sườn Đông QL13, tiến chiếm đồi 150. 

Lúc 08 giờ sáng, khi đến đồi 150, thấy địch rất đông, Chi đoàn trưởng Chi đoàn 1/1 đã cho các chiến xa chạy vào đồi 177, nên bị địch phục kích. Các chiến xa chạy vào rừng, các binh sĩ bỏ xe thoát thân. Một số chiến xa khác chạy xuống QL13 bị địch chận đánh. 

Cánh Phải tan rã. Các sĩ quan chỉ huy đã hy sinh. Trung tá Dương bị thương và bị bắt. Phần còn lại đã chạy thoát về Căn cứ  Lộc Ninh. 

Cánh Trái đã chạm địch gần đồi 178. Tiểu đoàn 2/9 (-) vẫn giữ liên lạc với Bộ chỉ huy Chiến đoàn 9. Hôm sau, Tiểu đoàn lại bị địch đánh, phần còn lại đã chạy thoát về căn cứ Hùng Tâm.1

Cùng ngày 06 tháng 4, sáng sớm, Cộng quân gia tăng pháo kích vào Quận lỵ Lộc Ninh và các căn cứ quân sự, hơn 3.000 quả pháo đủ loại. 

05g30, từ 3 hướng với 25 chiến xa T54 và PT76, quân CSBV tấn công biển người nhiều đợt vào Căn cứ Lộc Ninh và Chi khu Lộc Ninh.3

1. Tại Căn cứ Lộc Ninh: 

Chiến đoàn 9 chỉ còn 450 người, phải phòng thủ một chu vi quá rộng, kể cả đơn vị Pháo binh, nên không còn quân trừ bị. Tiểu đoàn 53 Pháo binh chỉ còn 4 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly là dùng đươc. 

Quân phòng thủ đã đẩy lui nhiều đợt xung phong của địch, bắn cháy 2 T54 và 1 PT76. Pháo binh phải bắn trực xạ vào chiến xa và bộ binh địch đang xung phong biển người, gần tuyến phòng thủ.

Từ phi trường Biên Hòa, Hàng không mẫu hạm Constellation, USS Saratoga và các căn cứ ở Thái Lan, các oanh tạc cơ Việt Mỹ, máy bay C130 Spectre trang bị đặc biệt và trực thăng AH1 Cobra đã yểm trợ tối đa giúp quân phòng thủ cầm cự được 2 ngày.3

Buổi chiều, Tiểu đoàn 3/9 (-) hoạt động ở Tây Nam Lộc Ninh, sau khi phải đi sâu xuống phía Nam, tránh VC đang ở xã Lộc Thiện, mới vào được căn cứ ở cuối phi trường. Tiểu đoàn được lệnh tăng cường một đại đội cho Căn cứ Lộc Ninh, một trung đội cho căn cứ Pháo binh.1 

Cùng lúc, một chiến xa M41 và ba thiết vận xa thuộc Thiết đoàn 1 đã chạy thoát về được Lộc Ninh. Các thiết giáp được lệnh bố trí tại phi trường, nhưng vì tình hình quá nguy cấp, đã bỏ chạy về An Lộc.1 

Trận chiến kéo dài đến chiều tối, quân bạn càng lúc càng ít đi. Ban đêm, Cộng quân pháo vào hầm cứu thương, giết hại hầu hết các thương binh. Sau đó, hỏa tiễn lại bắn trúng hầm chứa đạn pháo của Pháo binh đã gây cháy nổ dữ dội.3

Khi Cộng quân cố tràn ngập Căn cứ Lộc Ninh, một AC130 Spectre đã giết hại phần lớn Trung đoàn địch tại hàng rào phòng thủ.3 

Cùng ngày, Tướng Hưng lệnh cho Trung tá Nguyễn Bá Thịnh, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 52 tại căn cứ Hùng Tâm, mở cuộc phản công để giải vây cho quân phòng thủ Lộc Ninh. Cuộc phản công này do Tiểu đoàn 2/52 là đơn vị đóng quân gần Lộc Ninh nhất. Nhưng sau khi xuất quân, Tiểu đoàn bị Cộng quân phục kích tấn công dữ dội gần giao lộ LTL17 và QL13. Tiểu đoàn phải rút lui về căn cứ.3 

Ngày 07 tháng 4, lúc 07 giờ sáng, từ phía Bắc và phía Tây, Cộng quân dùng chiến thuật biển người xung phong nhiều đợt vào quân trú phòng với đại pháo, hỏa tiễn và xe tăng. Đại tá Vĩnh, Bộ chỉ huy Chiến đoàn, anh em Pháo binh và toán Cố vấn Mỹ liền rút ra khỏi vị trí phòng thủ.1 

Cố vấn trưởng Trung tá Richard R. Schott, vì bị thương nặng, đã tự sát. Quân còn lại, chưa đầy 100, vượt qua sân bay rút về phía Nam, lại bị địch chận đánh. Đại Tá Vĩnh, một số chiến binh và Cố vấn Đại úy Mark A. Smith đã bị bắt.

08 giờ, CSBV đã chiếm được Căn cứ Lộc Ninh.3

2. Tại Chi khu Lộc Ninh:

Sau khi mất liên lac với Bộ chỉ huy Chiến đoàn 9 và biết lực lượng ở phía Bắc bị đánh tan, viện quân từ phía Nam bị chận đánh phải tháo lui, Thiếu tá Thịnh, Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Lộc Ninh, Bộ chỉ huy Chi khu và toán Cố vấn Mỹ rút về phía Nam, phân tán vượt thoát vòng vây. 

Mãi đến 14g00, Cộng quân mới vào được Chi khu. 16g30 chiều, Chi khu Lộc Ninh thất thủ.3

Chiều 07 tháng 4, máy bay đã tới hủy diệt các căn cứ quân sự và Chi khu Lộc Ninh.1

Ngày 11 tháng 4, Thiếu tá Thịnh, Cố vấn Davidson và một số chiến binh mới về đến An Lộc. 

Kết quả, địch 2.150 chết, 2 T54 và 1 PT76 bị bắn hạ. Bạn 600 chết, 2.400 bị thương hay bị bắt; Thiết đoàn 1 (38 M41 và M113 bị chiếm hay bị bắn hạ); Pháo đội của căn cứ Alpha (4 khẩu 105 và 2 khẩu 155 ly) tự phá huỷ; Trung đội pháo (4 khẩu 105 ly) bị địch chiếm; Tiểu đoàn 53 (-) Pháo binh Hỗn hợp 105 và 155 ly, bị pháo hư hay tự phá huỷ.1


pastedGraphic_3.png

Phi trường Lộc Ninh

pastedGraphic_4.png

CSBV tấn công Lộc Ninh

1. Căn cứ Lộc Ninh – 2. Vị trí pháo binh – 3. Chi khu Lộc Ninh




Chương 5


PHẢN ỨNG CỦA VNCH



1. Sau khi Lộc Ninh thất thủ, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3 nhận định rằng nếu An Lộc thất thủ, con đường dẫn về Sài gòn rất gần. Trung tướng Minh quyết định giữ An Lộc bằng mọi giá và ra lệnh: 

- Sử dụng Không quân Việt Mỹ oanh tạc tối đa vào đội hình địch, các đường tiến sát, vị trí pháo và trục tiếp tế của địch để tiêu hao lực lượng và làm chậm sức tiến công của địch, để Sư đoàn 5 BB có thì giờ phòng thủ An Lộc. 

- Tăng phái Liên đoàn 3 BĐQ, đơn vị trừ bị của Quân đoàn 3 cho Sư đoàn 5 BB. 

- Trình xin Bộ Tổng Tham mưu lực lượng Tổng Trừ bị để tăng cường cho chiến trường An Lộc. 

- Di chuyển Bộ Chỉ huy Hành quân Quân đoàn 3 từ Biên Hoà lên Lai Khê để trực tiếp chỉ huy chiến trường. 

2. Truớc ngày địch tấn công, tại An Lộc chỉ có Bộ chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 5 BB, 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 1/7 BB, khoảng 1.000 Địa phương quân và Cảnh Sát, một vài thiết vận xa V100 cùng vài pháo đội 105 và 155 ly hỗn hợp.

Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 BB, ra lệnh: 

- Trung đoàn 52 BB bỏ căn cứ Hùng Tâm về An Lộc. 

- Trung đoàn 7 BB bỏ căn cứ Charlie về An Lộc. 

- Di chuyển Bộ Chỉ huy Hành quân Sư đoàn 5 BB từ Lai Khê vào An Lộc để thống nhất chỉ huy. 

3. Để đối phó với tình hình tại Quân khu III, mặt trận chính về chiến lược, Bộ Tổng tham mưu tăng cường cho Quân đoàn 3: Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù và Sư đoàn 21 Bộ Binh. 

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: “Quyết bảo vệ An Lộc bằng mọi giá.” Điều này ảnh hưởng tâm lý đến phe tấn công cũng như phòng thủ.3 

Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 BB được lệnh cùng cố vấn trưởng là Đại tá William Miller vào cố thủ An Lộc. Chuẩn tướng Hưng quyết tâm với lời thề “sẽ tự sát nếu để mất An Lộc.”

Sau khi chiếm Lộc Ninh, Cộng quân bắt đầu di chuyển ban đêm qua rừng già và rừng cao su về phía Nam tiến đến An Lộc. Cộng quân chiếm những cao điểm chiến thuật quanh Thị xã.3


pastedGraphic_5.png


Chuẩn tướng Lê Văn Hưng


pastedGraphic_6.png



pastedGraphic_7.png


F4 Phantom jet fighter





Chương 6


TRẬN QUẢN LỢI

(3 cây số Đông Bắc An Lộc)

Trung Ðoàn 7 BB về An Lộc

05-4-1972



Ngày 05 tháng 4, khi căn cứ Lộc Ninh chưa mất hẳn, Cộng quân mới chiếm chợ, Phi trường Quản Lợi, 3 cây số Đông Bắc An Lộc, bị đặc công địch xâm nhập vào bên trong đốt cháy kho nhiên liệu.1

Kho nhiên liệu là điểm tiếp tế quan trọng cho các phi cơ trực thăng Việt Mỹ hoạt động vùng biên giới.3 Quân đồn trú tại đây có 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 1/7, một đơn vị Địa phương quân và một đơn vị Lôi Hổ. Lúc 02g15, Tiểu đoàn mất liên lạc với một đại và Trung đoàn 7 BB chỉ còn liên lạc được với đại đội thứ hai đóng bên ngoài.1

Ngày 06 tháng 4, đơn vị Lôi Hổ được trực thăng đến bốc đi an toàn. Các phi cơ Mỹ bay trên khu vực đồn điền đã bị phòng không địch đặt trên các căn nhà của Pháp bắn lên dữ dội. Mỹ đã phải bắn tới 400 hỏa tiễn về phía đài quan sát của phi trường, nơi Cộng quân đã chiếm đóng.

Ngày 07 tháng 4, hai tiểu đoàn khác thuộc Trung đoàn 7 BB tại căn cứ Charlie, 7 cây số Tây Bắc An Lộc, mặc dù bị Công trường 9 CSBV bám riết cũng đã về được An Lộc an toàn.1

Chiều 07 tháng 4, Công trường 9 CSBV tấn chiếm phi trường Quản Lợi, để cắt đứt đường tiếp tế cho Lộc Ninh và cầm chân lực lượng tiếp viện.

Phi trường Quản Lợi là một căn cứ do Mỹ chuyển giao quá rộng, nên khi Cộng quận tấn công nhiều đợt vào phi trường Quản lợi bằng đạn hơi cay và ói mửa. Hai đại đội của Tiểu đoàn 1/7 Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 BB cùng các Địa phương quân không thể chống cự lại quân tấn công đông đảo. Họ được lệnh phá hủy các quân cụ và rút về thị xã An Lộc.3

Lấy được Quản Lợi, Cộng quân có được cao địa quan sát toàn thị xã An Lộc để điều chỉnh pháo và hỏa tiễn bắn vào thị xã chính xác.

Sau khi mất phi trường Quản Lợi, Tướng Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3, điều động Lữ đoàn 1 Dù tấn công về phía Bắc Chơn Thành để giữ an ninh QL13. Nhưng ngay lập tức Lữ đoàn bị Cộng quân kháng cự mạnh mẽ dọc theo QL13, để ngăn chận tiếp tế hay tăng cường cho An Lộc bằng đường bộ. Mất phi trường Quản Lợi và QL13 bị cắt đứt, An Lộc bị bao vây và mọi tiếp tế thực phẩm đạn dược bằng đường bộ từ bên ngoài không còn nữa.3


pastedGraphic_8.png

Phi trường Quản Lợi




Chương 7


LIÊN ĐOÀN 3 BIỆT ĐỘNG QUÂN VÀO AN LỘC

06-4-1972



Lực lượng phòng thủ An Lộc chỉ có một Sư đoàn 5 BB (-). Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân đoàn 3, tức tốc bốc Liên đoàn 3 BĐQ từ Tây Ninh về án ngữ phía Bắc An Lộc.

Liên đoàn 3 BĐQ là lực lượng trừ bị rất thiện chiến của Quân đoàn 3, gồm các Tiểu đoàn 31, 36 và 52, do Trung tá Nguyễn Văn Biết chỉ huy, được đặt dưới sự sử dụng của Sư đoàn 5 BB. Năm 1971, Liên đoàn đã quần thảo với Công trường 7 CSBV trên đất Miên trong trận Đam Be. 

Ngày 06 tháng 4, lúc 10 giờ sáng, Tiểu đoàn 31 BĐQ do Thiếu tá Trương Khánh chỉ huy, đã được trực thăng vận từ Tây Ninh tới sân banh An Lộc, để án ngữ mặt Bắc An Lộc gồm các điểm quan trọng như đồi Đồng Long, cầu Cần Lê và phi trường An Lộc. 

Ngày 07 tháng 4, lúc 10 giờ sáng, ban Cố vấn Mỹ, Bộ chỉ huy Liên đoàn và 2 Tiểu đoàn 36, 52 do Trung tá Biết chỉ huy đáp xuống phi trường An Lộc. Trung tá Biết được xe Jeep của Bộ tư lệnh Sư đoàn 5 BB đưa vào trình diện Tư lệnh Sư đoàn để nhận lệnh.

Ðại tá Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh phó Sư đoàn 5 BB, chỉ huy Bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 5 BB tại An Lộc, cho biết tình hình: 

 “Bạn, gồm Địa phương quân, Nghĩa quân, Cảnh sát, Tiểu khu Bình Long, Bộ tư lệnh Sư đoàn 5 BB, Trung đoàn 7. Trung đoàn 8 chưa tới, Trung đoàn 9 bị địch tràn ngập ở Lộc Ninh, Bắc An Lộc gần biên giới Việt Miên. Quận Lộc Ninh đã bị chiếm. Trung đoàn 9 BB và Thiết đoàn 1 Kỵ binh phải di tản khỏi Lộc Ninh, đang về An Lộc.

Địch, bốn Công trường bộ binh CSBV, chưa kể chiến xa, pháo binh, phòng không, đang áp sát An Lộc từ nhiều hướng. Công trường 5 đang theo QL13 xuống công hãm mặt Bắc An Lộc. Công trường 9 đánh ép mặt Tây. Công trường 7 giữ QL13 ở phía Nam. Công trường Bình Long từ Ðông Bắc đánh xuống.”

Liên đoàn 3 BĐQ được Sư đoàn 5 BB chỉ định trấn giữ tuyến phòng thủ, từ suốt mặt Bắc đến giáp mặt Đông, với 2 Tiểu đoàn 31 và 52.

Sĩ quan Phụ tá Ban 3 kiêm Sĩ quan Không trợ của Liên đoàn 3 Biệt Động Quân, Nguyễn Quốc Khuê viết hồi ký trong Liên đoàn 3 BĐQ với Trận chiến An Lộc – Bình Long:

“Được biết tuyến trên đó, Thiếu tá Khánh điều động 2 Đại đội án ngữ mặt Bắc. Đại đội của Thiếu úy Trương Tấn Phước bên hướng đồi Đồng Long với các đồi nhỏ quanh đó tới ấp Bè Moi gần cầu Cần Lê. Bên phải QL.13 về hướng Bắc Sân Bay là Đại đội của Thiếu úy Sơn Đó chiếm lĩnh các cao điểm khu này. Thiếu tá Khánh dặn 2 đơn vị Đại đội Trưởng này cố quan sát kỹ để sẵn sàng tiếp nhận quân bạn rút về An Lộc.

…Riêng TĐ.36/ BĐQ, Thiếu tá Lạc báo đ ơn vị ông  đã vào vị trí an toàn và bố trí xong ở vòng đai Thị xã hướng Đông Bắc, kéo dài tới phía Bắc cầu Trắng, nằm trên đường từ trung tâm Thị xã  qua đồn điền Quản Lợi bằng 2 đại đội, 1 Đại đội bố trí với BCH/TĐ ở trong vòng đai Thị xã; 1 Đại đội chiếm các cao điểm ven đồn điền Quản Lợi giáp ranh Thị xã.

Tiểu đoàn 52/BĐQ và Đại đội Trinh Sát 3/ BĐQ trấn thủ vòng đai ngoài tuyến phòng thủ BTL/ SĐ5BB và bảo vệ BCH/LĐ đóng trong căn cứ Biệt kích Mỹ cũ, cách BTL/SĐ5BB không xa chếch về hướng Tây một tí, cũng ở khuôn viên Thị xã An Lộc. 1 Đại đội của TĐ.52/ BĐQ chiếm cứ đồi Gió, hướng Đông Nam Thị xã. Các cao điểm xung quanh là các tiền đồn của Đại đội này và Đại đội TS.3/BĐQ.”

Tiểu đoàn 36 BĐQ phải đương đầu với 2 trung đoàn địch có chiến xa trợ chiến, đã anh dũng đánh nhiều đợt với địch quân, cuối cùng cũng bị địch cắt làm đôi. Một nửa bị đánh dạt ra đồi Gió. Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn và lực lượng còn lại bị đẩy lùi trở lại tuyến phòng thủ phía Đông Liên đoàn. Thiệt hại khá nặng.  

Đại úy Đồng Kim Quan, Đại đội trưởng Đại đội 4 thuộc Tiểu đoàn 36 BĐQ, viết trong tập hồi ký: 

“10g00 sáng hôm sau, ngày 07 tháng 04, Liên đoàn 3 Biệt động quân từ Tây Ninh đến An Lộc bằng trực thăng HU1B. 

12g00, Tiểu đoàn 36 di chuyển về hướng phi trường Quản Lợi, ra khỏi phía Đông An Lộc 1 cây số, tụi tôi chạm địch. Theo tin tình báo, lực lượng quân Bắc Việt là Trung đoàn 275 Công trường 9. Tiểu đoàn 36 nhận được lệnh giữ con đường này, và án ngữ đường vào An Lộc. 

Mối lo ngại chính bây giờ là dân chúng, sinh mạng họ không cho phép Pháo, Phi Pháo yểm trợ tối đa. Bọn Việt Cộng chắc rõ nhược điểm này của chúng ta, nên chúng khai thác triệt để. Mắt tôi dại hẳn, khi thấy những người dân liều lĩnh chạy ra khỏi vòng chiến, bị Việt Cộng bắn ngã sấp mặt về trước. Thiếu tá Tống Viết Lạc, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36, tức tối: 

- Quân dã man, chúng nó lấy dân làm “MỘC” để đỡ đạn mình đây mà! 

Gương mặt Ông cau lại, chiến đấu bên cạnh Ông nhiều, tôi biết Ông sắp sửa có quyết định. Mỗi cấp chỉ huy đều có một lối quyết định riêng. Thiếu tá Lạc luôn luôn có quyết định đúng lúc. Ông quay lại người hiệu thính viên cầm máy: 

- Gọi “Gà cồ” bảo tụi nó “gáy” đi.

Mặc dù biết trước, tôi vẫn sững người trước quyết định đột ngột này, vì hàng ngàn dân còn đang kẹt lại trong đó… Tôi ấp úng: 

- Thưa Thiếu tá! 

Giọng nói Thiếu tá Lạc lại vang lên thật bình thản!

- Gọi Pháo Binh, nhưng dặn chỉ bắn “đạn khói” mà thôi. 

Tôi chợt hiểu, biết địch rất sợ pháo, Ông cho Pháo binh bắn đạn khói, lợi dụng cơ hội địch trốn pháo, dân sẽ thoát ra… Đã có tiếng “Depart” rít lên nghe rõ mồn một. Vài phút đồng hồ sau, chiến trường nghiêng ngửa rõ rệt. Dân chúng tại Quản Lợi đã chạy được ra gần hết; chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn đầu “Giải thoát cư dân”. 

Án ngữ đường vào An Lộc của Việt Cộng, là giai đoạn sau của Tiểu đoàn 36, trong những ngày kế tiếp: 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14 tháng 4. Quản Lợi vẫn nguyên vẹn, mặc dù 24/24 giờ, đều đụng địch. Hình như tử thần đang lảng vảng đâu đây? 

Ngày N+1, sau 5 ngày thất bại, Việt Cộng nhất quyết nhổ cái gai Tiểu đoàn 36 bằng chiến thuật biển người, đánh vào 3 mặt Bắc, Đông và Tây, áp lực rất nặng, phòng tuyến hai bên chỉ cách nhau 30 thước. Đợt tấn công đầu, chúng nó lao vào như những con thú điên, được chích thêm thuốc kích thích. Những ổ đại liên, những khẩu M.16 “tự động” ở tuyến đầu làm việc rất đắc lực, làm chúng không tiến lên được. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng lầu bầu: 

- Đánh nhau với lũ điên này bực cả mình, chắc chúng nó “điếc” cả rồi… đâu có sợ súng?

Áp lực địch trước mặt vẫn còn nặng, tôi đưa ý kiến với Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng xin điều chỉnh cho Pháo binh bắn yểm trợ cách quân Bạn 30 thước. 

Đây là một mạo hiểm lớn nhất của tôi trong gần 10 tuổi lính …Trợt một ly ông cụ là… cõng rắn cắn gà nhà! Tim tôi bóp lại, khi nghĩ đến điều đó. Thiếu tá Lạc ưng thuận sau một phút nghĩ ngợi. Tôi mím chặt môi, nâng máy truyền tin vô tuyến lên điều chỉnh… Ầm… Ầm… Ầm… Xác địch bị hất tung lên ngang tầm mắt, tôi ngồi bệt xuống đất, những giọt mồ hôi hai bên trán, nhỏ xuống thoải mái. 

Tiếng Thiếu tá Lạc loáng thoáng: 

- Đẹp lắm… đẹp lắm… 

Sau hơn 10 tràng pháo nổ, bên kia tuyến của địch quân bỗng nhiên ngừng bắn, cái im lặng thật là ngột ngạt. Năm, rồi mười phút trôi qua mau chóng, từ từ chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ ì ầm đang tiến dần về huớng chúng tôi. Rồi lần lần hiện ra những chiến xa của địch, tất cả các chiến sĩ Biệt động quân đều chuẩn bị các khẩu M72, yên lặng nằm chờ phục bên đường, tinh thần không nao núng, mà trái lại còn cảm thấy thích thú khi nhìn thấy chiến xa địch tiến gần… 50 thước. 40 thước… rồi 30 thước… Các khẩu M72 thi nhau nổ, các cụm khói đen bốc ra từ chiếc T54 dẫn đầu. Bị cú bất ngờ… 2 chiếc dẫn đầu bị bắn cháy, còn lại 8 chiếc sau quay đầu bỏ chạy, không dám bắn trả, dù rằng một quả. Bên cạnh chiến xa, không thấy có bộ binh tùng thiết. Chính nhờ điểm này mà chúng tôi mới biết được rằng bộ binh và thiết kỵ của quân Cộng Sản Bắc Việt không được phối hợp để yểm trợ cho nhau… Thua keo này bày keo khác… Nửa giờ sau, chiến xa lại dàn hàng ngang, theo sau lố nhố bộ binh, tiếng súng lại nổ, M72 được bắn ra hằng loạt, quân địch đông như kiến… T54 thi nhau cháy, tạo ra một cảnh tượng hỗn loạn, đánh giáp lá cà giữa Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và khoảng 2 Trung đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt, trong đó theo lời của một tù binh địch khai báo, có cả Trung đoàn 171 của Công trường 9 tham dự trong trận đánh này. 

Đêm 15 rạng 16 tháng 4, Cộng quân tiếp tục tràn ngập Tiểu đoàn 36 BĐQ, một số chiến sĩ lui về được đến tuyến phòng thủ chánh của Liên đoàn 3 BĐQ, đang bố trí trên vòng đai phòng thủ Tỉnh lỵ, một số khác bị địch đánh bạt ra tận chân đồi 169 (khoảng 4 cây số Đông Nam An Lộc). Cho đến buổi chiều ngày 16 tháng 4, họ gặp được Biệt cách dù dưới chân đồi 169, 47 chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 36 BĐQ này được tháp tùng với Biệt cách dù, trở về nhập lại với Tiểu đoàn 36 đang trên tuyến phòng thủ, cùng với Liên đoàn 3 BĐQ trên tuyến phía Đông thành phố.”1

pastedGraphic_9.png


pastedGraphic_10.png


AH1 Cobra





Chương 8


BỘ THAM MƯU SƯ ĐOÀN 5 BB VÀO AN LỘC

06-4-1972



Chiều 06 tháng 4, Bộ tham mưu Sư đoàn 5 BB từ Lai Khê được trực thăng vận vào An Lộc. 

Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 BB và Ðại tá William Miller, Cố vấn trưởng, bay lên An Lộc để thống nhất chỉ huy, tổ chức phòng thủ chống lại quân CSBV đánh chiếm An Lộc. Nơi đây có sẵn một căn cứ làm bằng bao cát lót vỉ sắt khá vững chắc cho Bộ chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 5 BB ở phía Ðông An Lộc gần ga xe lửa. 

Ðại tá Miller nói với Tướng Hưng nơi đây không an toàn, vì không chống được hoả tiễn 122 ly và đại pháo 130 ly, toán cố vấn Mỹ sẽ về Lai Khê. 

Tướng Hưng đưa Ðại tá Miller vào trung tâm Thị xã An Lộc đến Trại Ðỗ Cao Trí, nơi đặt Bộ Chỉ huy Tiểu khu Bình Long cũ, đang bỏ trống, được đúc bằng xi măng cốt sắt, hầm sâu dưới mặt đất, có giao thông hào rất kiên cố, có khả năng chống được hoả tiễn 122 ly và đại pháo 130 ly. Ðại tá Miller đành ở lại An Lộc giúp Tướng Hưng sử dụng Không lực Mỹ yểm trợ chiến trường. 

Phi trường Lai Khê của Không quân Mỹ rút đi cách đây 3 tháng, nay đã hoạt động trở lại. Các phi cơ Việt Mỹ lên xuống tới tấp để chuyển quân và đồ tiếp liệu vào An Lộc.1

Ngày 08 tháng 4, Thị xã An Lộc đã bị vây hãm bằng pháo. Quãng đường 30 cây số nối liền An Lộc và Chơn Thành đã bị cắt đứt. Hàng ngàn đồng bào tản cư từ Lộc Ninh và các vùng quanh thị xã đành ở lại An Lộc.1


pastedGraphic_11.png


Sơ đồ Thị xã An Lộc


pastedGraphic_12.png


Thị xã An Lộc trước tháng 4 năm 1972

pastedGraphic_13.png


Quan sát cơ O2 Skymaster





Chương 9


TRẬN CẦN LÊ

(12 cây số Tây Bắc An Lộc)

Trung đoàn 52 BB về An Lộc

07-4-1972



1. Căn cứ hỏa lực Hùng Tâm, một đồn lũy kiên cố, xung quanh có bãi mìn, ở trên LTL17, 12 cây số Tây Bắc An Lộc, gần ngã ba LTL17 và QL13, giữa An Lộc và Lộc Ninh. Tại đây có Chiến đoàn 52 do Trung tá Nguyễn Bá Thịnh chỉ huy, gồm có Trung đoàn 52 BB với Tiểu đoàn 1/48 và 2/52 thuộc Sư đoàn 18 BB, từ Tây Ninh đến đây vào tháng 3 và đặt dưới quyền sử dụng của Sư đoàn 5 BB như lực lượng tuần tra biên giới, Pháo đội hỗn hợp (6 khẩu 105 ly thuộc Tiểu đoàn 182 PB và 2 khẩu 155 ly thuộc Tiểu đoàn 50 PB) cùng Đại đội 52 Trinh sát.1 

Ngày 05 tháng 4, Trung đoàn 209 Công trường 9 CSBV đã bao vây căn cứ này bởi những trận pháo kích nặng nề, liên tục bằng cối 82 ly.

Ngày 06 tháng 4, Tiểu đoàn 2/52 được chỉ định đi tiếp cứu Lộc Ninh. Nhưng sau khi xuất quân, Tiểu đoàn bị Cộng quân phục kích tấn công dữ dội gần giao lộ LTL17 và QL13. Tiểu đoàn phải rút lui về căn cứ. Cộng quân liên tục pháo vào căn cứ Hùng Tâm hơn 150 trái đạn 82, 105 ly, hỏa tiễn 122 ly từ hướng Nam và Tây Bắc.3 Ban đêm, Cộng quân lùa trâu vào bãi mìn để mở một lối trống tấn công vào căn cứ nhưng thất bại.1

Sáng 07 tháng 4, Tướng Hưng lệnh cho Trung tá Thịnh rút quân khỏi căn cứ Hùng Tâm về An Lộc.

08g30, Chiến đoàn 52 (-) rút lui, dẫn đầu có xe kéo súng đại bác và bồn nước uống di chuyển ra hướng Đông theo LTL17 về giao điểm với QL13. Khi đến gần giao lộ, đoàn xe bị phục kích ngay chỗ hôm trước. Chiến đoàn phải rút lui về căn cứ, bỏ lại 3 đại bác 105 ly và nhiều xe tải. Cộng quân gia tăng pháo kích vào căn cứ. 

09 giờ, Tướng Hưng lệnh cho Trung tá Thịnh hủy bỏ những vũ khí nặng và các quân xa để rút lui bằng đường bộ về An Lộc.3 

Chiến đoàn 52 (-) rút lui. Dẫn đầu là Tiểu đoàn 1/48 do Thiếu tá Nguyễn Yêm, Tiểu đoàn trưởng chỉ huy, di chuyển ra hướng Đông theo LTL17 về giao điểm với QL13, theo sau là Bộ Chỉ huy Chiến đoàn và Đại đội 52 Trinh sát, cuối cùng là Tiểu đoàn 2/52, đề phòng địch tập kích phía sau. Khi đến gần giao lộ, Tiểu đoàn 1/48 chạm địch, phải cận chiến với Cộng quân. Tiểu đoàn đánh tan quân địch trên LTL17.

Sau đó, Chiến đoàn lại bị Công trường Bình Long phục kích tấn công mạnh với những đợt xung phong biển người trên QL13. Toán Cố vấn Mỹ, gồm Trung tá Ginger, Đại úy Zumwalt và Trung sĩ nhất WinLand, đều bị thương nhưng vẫn điều động các phi cơ chiến thuật, AC130 Spectre và trực thăng AH1G Cobra võ trang tác xạ rất chính xác vào các đơn vị Cộng quân. Chiến đoàn mở đường máu đánh nhau với địch suốt 3 ngày đêm mới phá được vòng vây.

08 giờ ngày 08 tháng 4, trong lúc giao tranh dữ dội, Cố vấn Ginger, Zumwalt và Winland được trực thăng OH6 tải thương về Bệnh viện 3 Dã chiến Mỹ tại Sài gòn.3

2. Đồn cầu Cần Lê ở trên QL13, tám cây số Bắc An Lộc, do Trung tá Hòa chỉ huy. Tại đây có Đại đội 256 và 257 Địa phương quân, Pháo đội hỗn hợp (105 ly thuộc Tiểu đoàn 53 PB và 155 ly thuộc Tiểu đoàn 50 PB) và đại đội của Tiểu đoàn 2/9. 

Đêm 06 tháng 4, địch dùng hoả tiễn 107 ly bắn vào đồn từ hướng Nam. 

Ngày 07 tháng 4, lúc 07 giờ sáng, bộ binh địch tấn công vào quân trú phòng tại cầu.

Bộ chỉ huy Sư đoàn 5 BB đã cấp tốc phái Tiểu đoàn 31 BĐQ lên cầu Cần Lê để yểm trợ cho sự rút lui của đồn này. 10g15 quân yểm trợ và quân đồn trú đã bắt tay được với nhau. 14g30 pháo binh cầu Cần Lê và các đơn vị trú phòng bắt đầu rút về An Lộc. Pháo binh rút trước, Đại đội 256 Địa phương quân rút sau cùng. Mãi đến 16g10 Cộng quân mới tiến vào đồn cầu Cần Lê.

Ngày 08 tháng 4, lúc 11g20, các đơn vị tại cầu Cần Lê đã về đến An Lộc.1 

Trưa 10 tháng 4, Trung đoàn 52 BB về đến trường Tiểu học An Lộc. 

Kết quả, địch 3.200 chết; bạn 600 chết, trong đó có Trung Tá Trung đoàn Phó Hoàng Văn Hiến, mất 3 khẩu 105 ly và 3 xe GMC, phá huỷ 3 khẩu 105 ly, 2 khẩu 155 ly, 17 xe GMC và tất cả đạn pháo; Mỹ 1 phi công phụ chết, ba Cố vấn bị thương.

Với Trung đoàn 52 BB vừa về tới, Tướng Hưng cho phòng thủ An Lộc như sau:

Liên đoàn 3 BĐQ giữ mặt Bắc và Ðông. 

Trung đoàn 7 BB giữ mặt Tây. 

Tiểu khu Bình Long giữ an ninh trật tự bên trong Thị xã và mặt Nam. 

Trung đoàn 52 BB (-) đóng giữa Tiểu khu Bình Long và Bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 5 BB trợ chiến cho mặt Nam. 

Bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 5 đóng tại trại Ðỗ Cao Trí do Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 BB kiêm Tư lệnh mặt trận chỉ huy tổng quát. 

Nhận thấy lực lượng trên không thể chống lại được cuộc tấn công cấp Quân đoàn có chiến xa và đại pháo của CSBV vào An Lộc, Tướng Hưng xin cho Trung đoàn 8 BB vào tăng viện. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3, quyết định ngày 11 tháng 4 sẽ trực thăng vận Trung đoàn 8 BB vào An Lộc.”1


pastedGraphic_14.png





Chương 10


TRUNG ĐOÀN 8 BB VÀO AN LỘC

11-4-1972



Ngày 11 tháng 4, Trung đoàn 8 BB do Đại tá Mạch Văn Trường chỉ huy sẵn sàng tại phi trường Dầu Tiếng, để được trực thăng vận vào An Lộc.

Đại tá Mạch Văn Trường viết trong tập hồi ký  Trung Ðoàn 8 BB và trận chiến An Lộc như sau: 

“Mặc dù cuộc đổ quân vào An Lộc của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh được phản lực cơ Việt và Mỹ bao vùng yểm trợ diệt pháo và phòng không, khi chiếc trực thăng chỉ huy của Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh hướng dẫn đoàn trực thăng lift đầu (10 chiếc chở 100 quân) gần đến An Lộc thì pháo binh địch từ nhiều vị trí, nhiều hướng khác nhau đã bắn tới tấp vào Thị Trấn An Lộc chế ngự sân bay, sân banh, và các bãi đáp trực thăng trong Tỉnh. Không thể nào đổ quân vào bên trong An Lộc được. May thay phía Nam Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long khoảng 3 cây số có những “Láng” (lõm trống giữa rừng, chỉ có cỏ, không có cây cao). Tôi quyết định thả quân xuống các lõm trống này. Trực thăng bay thật thấp sà trên đọt cây, đổ quân thật nhanh, binh sĩ được lệnh nhảy xuống đất tản ra tìm chổ ẩn nấp an toàn, rồi các đơn vị gom quân liên lạc với Trung Ðoàn Trưởng dưới dất. Tôi và Bộ Chỉ Huy nhẹ Trung Ðoàn 8 Bộ Binh xuống đất cùng với lift đầu. Rất may khu vực phía Nam này địch chưa phối trí súng phòng không nên trực thăng đã thả Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và 2 Tiểu Ðoàn xuống đất an toàn. Lúc này trời đã xế chiều, tạm ngưng trực thăng vận. Còn lại 1 Tiểu Ðoàn và Ðại Ðội Trinh Sát ngày hôm sau Thiếu Tá Trung Ðoàn Phó tiếp tục thả quân và đã hoàn tất trong buổi sáng ngày 12-04-1972. 

Ðịch tiếp tục pháo kích khắp mọi nơi. Tướng Hưng nắm vững tình hình hướng dẫn cho Ðại Tá Trường những ngả đường đang bị pháo, những nơi chưa bị pháo để theo lối an toàn đi vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tại thành Nhật (Trại Ðỗ Cao Trí) ngay trung tâm Tỉnh Lỵ nhận lệnh.

… Ðứng trước bản đồ, Ông cho biết tình hình y như Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đã nói. Ðịch đã bao vây và áp sát. Chắc chắn trong vòng một hay hai hôm nữa thì địch sẽ bắt đầu tấn công. Ðiểm sẽ là mặt phía Bắc, nổ lực chính có chiến xa. Ðoạn Ông lấy bút chì mỡ vẽ lên bản đồ lằn ranh phân chia khu vực trách nhiệm phòng thủ và nói với Ðại Tá Tư Lệnh Phó: Trung Ðoàn 8 Bộ Binh còn khỏe, quân số đông, trang bị đầy đủ, trao nhiệm vụ cho Trung Ðoàn 8 Bộ Binh phòng thủ phía Bắc.”4 

Với Trung đoàn 8 BB được không vận tới, Tướng Hưng phối trí phòng thủ An Lộc như sau: 

Liên đoàn 3 BĐQ do Trung tá Nguyễn Văn Biết chỉ huy, giữ mặt Đông thị xã lấy đường Nguyễn Du làm ranh giới. Khu vực tương đối rộng và Liên đoàn áp dụng phương pháp điều động phòng thủ. Một thành phần thuộc Tiểu đoàn 52 BĐQ đóng tiền đồn tại đồi 169.

Trung đoàn 8 BB do Đại tá Mạch Văn Trường chỉ huy, giữ mặt Bắc lấy đại lộ Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Ngô Quyền và Thủ Khoa Huân làm ranh giới. 

Trung đoàn 7 BB do Trung tá Lý Đức Quân chỉ huy, giữ mặt Tây Nam lấy đường Trần Hưng Đạo, Phan Chu Trinh và Nguyễn Huệ làm ranh giới.

Trung đoàn 52 BB nằm nội vi của Liên đoàn 3 BĐQ, giới hạn trong các đường Nguyễn Du, Thủ Khoa Huân, Ngô Quyền và Nguyễn Trung Trực.

Tiểu khu Bình Long do Trung tá Nguyễn Thống Thành, Tiểu khu phó giữ mặt Nam lấy đường Phan Chu Trinh, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du và Hoàng Hoa Thám làm ranh giới. 

Quân số tham chiến:

Liên đoàn 3 BĐQ khoảng 1.500 người. 

Trung đoàn 7 gồm Tiểu đoàn 1/7 (-), 2/7, 3/7 khoảng 850 người.

Trung đoàn 8 gồm Tiểu đoàn 1/8, 2/8 khoảng 900 người.

Trung đoàn 52 BB khoảng 300 người. 

Pháo binh gồm Tiểu đoàn 50, 52, 53, 182 khoảng 300 người. 

Tiểu khu Bình Long gồm Đại đội 211, 212, 214, 251, 255, 256, 257, 295 ĐPQ (-), Chi đội V100 (-), Nghĩa quân, Nhân dân tự vệ, Cảnh Sát khoảng 2.150. 

Các đơn vị phụ cận khoảng 500. 

Tổng cộng: 6.500 người.1

Đại tá Trường cho biết thêm: “Sáng ngày 12-04-1972, Thiếu Tá Trung Ðoàn Phó trực thăng vận tiểu đoàn còn lại và Ðại Ðội 8 Trinh Sát lên đến, tôi cho phòng thủ chiều sâu, chiếm lĩnh các cao ốc dọc theo Quốc Lộ 13 xuyên qua An Lộc đồng thời tiểu đoàn này cũng là trừ bị cho Trung Ðoàn, Ðại Ðội 8 Trinh Sát lập tuyến tổng tiền đồn tại đồi Ðồng Long, nơi đây có 1 Trung Ðội Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long với quân số khoảng 20 người.”





Chương 11


CSBV TẤN CÔNG AN LỘC LẦN 1

13-4-1972



Ngày 08 tháng 4, các đơn vị của Công trường 5 và 9 CSBV đã bao vây thị xã An Lộc, chiếm lãnh các ấp An Phú, Phú Lố, Phú Miêng, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Trạch và Minh Đức ở quanh thị xã.

Bộ tư lệnh Tiền phương R (MTGPMN) dùng Công trường 9 CSBV tấn công vào Thị xã An Lộc. Đồng thời, Công trường 7 CSBV phục kích dọc QL13 để chặn quân tăng viện.

Phi trường An Lộc vẫn bị pháo kích mỗi ngày, nhưng phi cơ bạn vẫn đáp để chuyển quân và tiếp tế.

Từ 07 đến 12 tháng 4, Không quân VNCH, phi đội trực thăng 237 bay C47 Chinook hoàn tất 42 phi xuất tiếp tế tại một bãi đáp. Mỗi phi xuất chở 3.5 tấn tiếp liệu. Vài chiếc trúng đạn khi đang đổ hàng nhưng không bị bắn hạ.8 

Ngày 09 tháng 4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng tư lệnh tối cao QLVNCH ra lệnh phải giữ Bình Long bằng mọi giá.

Ngày 10, 11 và 12 tháng 4, mỗi ngày Quân đoàn 3 cho hàng trăm phi xuất phản lực cơ Việt Mỹ đánh bom vào các vị trí địch tập trung, vị trí pháo và phòng không địch quanh An Lộc. 

Các phi cơ chiến lược B52 của Mỹ đã dội bom rất dữ dội ở khu vực phía Bắc thị xã để ngăn chặn bộ binh địch xâm nhập.3 Mỗi phi vụ B52, gồm 3 máy bay, mỗi chiếc mang 108 quả bom MK82 nặng 500 cân Anh.3 Hai kho đạn của Cộng quân bị oanh kích trúng tại phía Tây và Tây Bắc thị xã đã phát nổ, một trong 2 kho này đã nổ hàng giờ.1 

Trong khi các phi cơ A1, A37 của VNCH và A6, A7, F4 của Mỹ ném bom trên đầu quân CSBV tập trung quanh thị xã, thì trực thăng chiến đấu AH1G Cobra, AC119 K Stinger và AC130 Spectre yểm trợ chính xác trước những tuyến phòng thủ của quân VNCH.3 Các phi công báo cáo đã dùng hỏa tiễn chống chiến xa phá hủy 7 đến 9 chiếc T54 ở phía Bắc và phía Tây bên ngoài thị xã.

Ngày 11 và 12 tháng 4, dân chúng các nơi chạy giặc về tỉnh rất đông. Họ vào nhà thờ, chùa Phật ngồi đông nghẹt. Mục sư Ðiểu Huynh dắt 500 dân Thượng từ các buôn chạy vào ngồi chật sân ga xe lửa. Một số gia đình Ðịa phương quân, Nghĩa quân và Viên chức xã ấp, cùng nhau vào các nơi có quân đội trú đóng để tá túc. Tướng Hưng lưu ý các đơn vị phải cảnh giác đặc công địch trà trộn đánh nội ứng.4

Ngày 12 tháng 4, bất chấp các cuộc dội bom, Cộng quân đã phối trí được một hệ thống phòng không mạnh mẽ quanh An Lộc với súng phòng không 23, 37 và 57 ly, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 Strella. Đặc biệt hệ thống cảnh báo sớm đã cho phép Cộng quân biết những phi cơ đang tới gần để sẵn sàng khai hỏa. Một trực thăng tiếp tế C47 đã bị bắn rơi trong thị xã.3

Chiều 12 tháng 4, quân VNCH quanh An Lộc đã tăng lên 9 tiểu đoàn, khoảng 3.000 quân. Nếu so sánh vớỉ 3 Công trường CSBV bao vây An Lộc, quân phòng thủ VNCH 1 chọi 6 quân CSBV.3

Đêm 12 rạng 13 tháng 4, CSBV từ phía Tây và Nam thị xã pháo liên hồi vào An Lộc. Hầu như tất cả vũ khí của Cộng quân đều được dùng, từ 57, 75 ly không giật, 76, 100 ly trên xe tăng và hỏa tiễn 107, 122 ly, các loại súng cối 61, 62, 82 ly và đại bác 105, 155, 130 ly, trên 7.000 quả đạn đủ loại.3 Cộng quân gia tăng pháo kích vào các phòng tuyến phía Bắc, phía Đông và Tiểu đoàn 52 Pháo binh.1

Đồi Đồng Long bị pháo hỏa tiễn 107 ly; bạn 7 chết, 15 bị thương.

Nửa đêm, địch pháo vào phi trường An Lộc ở phía Bắc. Kho tiếp liệu của Quân đoàn 3 bốc cháy và bị tiêu hủy. 

Bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn 5 BB tại phía Ðông bị pháo tập trung bắn sập. Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh này đã di chuyển sang trại Ðỗ Cao Trí vài ngày trước đó.

Tiểu đoàn 52 Pháo binh hỗn hợp 105 và 155 ly ở vườn Tao Phùng bị tê liệt. 

Nhà thờ Kitô Vua và sân ga có nhiều thường dân lánh nạn cũng bị pháo, dân chúng bị thương vong rất nhiều. Tướng Hưng ra lệnh cho Quân Y gần đó phải đến cấp cứu cho nạn nhân.

05g15, lực lượng Cộng sản gồm xe tăng T54, PT76 của Tiểu đoàn 20, Tiểu đoàn 21 biệt lập và Trung đoàn 26 Thiết giáp với bộ binh theo sau, tấn công khu vực Đông Bắc An Lộc, nhắm vào phòng tuyến của Liên đoàn 3 BĐQ.3

06g50, chiến xa địch xuất hiện trước Tiểu đoàn 31 BĐQ ở Bắc phi trường An Lộc. Tiểu đoàn mất liên lạc với Bộ chỉ huy Liên đoàn 3 BĐQ.

06g55, Đại đội 8 Trinh sát và Trung đội Địa phương quân, đóng tiền đồn tại đồi Đồng Long, 500 thước Bắc An Lộc, đã bị thất thủ nhanh chóng trước áp lực mạnh của địch, phải rút vào thị xã đóng tại Đại lộ Hoàng Hôn làm trừ bị cho Trung đoàn 8 BB.

07 giờ, chiến xa địch vào phi trường An Lộc, 300 thước Đông Bắc An Lộc. Nơi đây có một Đại đội Địa phương quân và một Trung đội Pháo binh trú đóng. Pháo binh bắn trực xạ nhưng vẫn không cản được. Đại đội Địa phương quân và Pháo binh đều phải rút lui.

Lúc này, Tiểu đoàn 31 BĐQ bị Trung đoàn 272 Công trường 9 CSBV và một Đại đội chiến xa địch uy hiếp nên phải rút lui vào thị xã. 

7g10, phi cơ AC130 sà xuống bắn phá, chận đứng bộ binh địch ở phi trường. Đại đội chiến xa có 7 chiếc, từ hướng Bắc theo đường Nguyễn Huệ tiến vào thị xã. Ba chiếc đi thẳng vào trung tâm thị xã, bốn chiếc khác tiến về phía sau khu Chợ Mới. Quân nhân tại đây đa số chưa hề đụng trận với xe tăng địch nên hoảng hốt ít phút đầu.3

Chiếc T54 đi vào đường Nguyễn Trung Trực, đã bị một Địa phương quân ở góc đường Nguyễn Trung Trực - Đinh Tiên Hoàng bắn cháy bằng súng M72.1 Điều này chứng tỏ rằng quân phòng thủ có thể chận đứng xe tăng bằng súng M72, khiến họ lên tinh thần và bình tĩnh đánh trả xe tăng.3 

Ba chiếc còn lại với một trung đội bộ binh địch theo sau, chạy nối đuôi nhau vào đường Ngô Quyền, con đường chính hướng Bắc Nam của thị xã. Khi đoàn xe tăng đi ngang trại Cảnh Sát Dã Chiến (CSDC), do Đại úy Hoàng Văn Thành chỉ huy, chỉ cách hàng rào phòng thủ 2 thước, bị một CSDC, tên Nguyễn Văn Nuôi, dùng M72 bắn một chiếc T54. Chiến xa bị bắn này còn chạy được 300 thước tới gần phòng tuyến của Trung đoàn 8 BB và bị bắn hạ.

Trung đội Cộng quân đi sau đoàn chiến xa, bị CSDC bắn bằng súng M79 và M16 đã chạy dạt sang chùa Từ Quang ở phía bên kia đường.

07g25, chiếc thứ ba (PT76) chạy tới Bộ chỉ huy Sư đoàn 5 Hành quân, phía Nam thị xã, bị Đại tá Vỹ, Tư lệnh phó Sư đoàn 5 BB bắn cháy. Chiếc này còn chạy được tới ngã tư Phan Bội Châu - Hoàng Hoa Thám lại bị binh sĩ Trung đoàn 7 BB bắn hạ.

Tiểu đoàn 1/7 hạ chiếc thứ tư (T54) tại đồn quân cảnh. Chiếc thứ năm (PT76) chạy vào chợ Mới bị trực thăng Cobra bắn hạ. Chiếc thứ sáu (T54) chạy tới cổng Xa Cam, bị Tiểu khu hạ bằng khẩu 105 ly trực xạ. Chiếc thứ bảy (T54) bị hạ ở hông Tiểu khu.

Sau khi cả 7 chiếc tăng bị hạ, Cộng quân chỉ còn pháo kích cầm chừng.

11g50 Tiểu đoàn 3/7 tiếp nhận một hồi chánh viên, đương sự khai hiện có 3 trung đoàn đang hướng về An Lộc.

Tuy nhiên, Cộng quân đã kiểm soát được sân bay và khu vực nhà tole phía Bắc Thị xã. Địch bắt đầu đào hầm hố để chiến đấu lâu dài.1 

14 giờ, trước áp lực mạnh của địch, Đại đội CSDC (-) được lệnh di chuyển về phía Nam thị xã, gần đồn điền cao su Xa Cam, để phòng thủ Bộ Chỉ huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Bình Long. Buổi chiều, Cộng quân gia tăng pháo kích vào tuyến phòng thủ phía Nam thị xã. Kết quả, 3 Cảnh Sát Sắc Phục và 1 CSDC tử thương, 2 CSDC khác bị thương.

17 giờ, Liên đoàn 3 BĐQ được phép thu hẹp phòng tuyến ở mạn Bắc thị xã.1

Lúc này, Phi trường An Lộc bị tê liệt. Không vận tiếp tế tới thị xã bị cắt đứt. 

Kết quả, bạn 28 chết, 53 bị thương, 6 mất tích, mất 3 súng cộng đồng và 42 súng cá nhân. Địch 169 chết đa số do hỏa lực của Không quân, 2 bị bắt, 3 súng cộng đồng và 5 súng cá nhân bị tịch thu, 2 máy truyền tin và 15 chiến xa bị phá hủy.

Chiều 13 tháng 4, Trung tướng Nguyễn Văn Minh đã rời bộ chỉ huy nhẹ lên Lai Khê để thích nghi với chiến trường.1

Ngày 14 tháng 4 và 2 ngày sau, 27 vận tải cơ Việt Mỹ thả dù được 135 tấn tiếp liệu, nhưng quân phòng thủ chỉ nhận được 34 tấn với 6 bành dù khi chạm đất phát nổ. Vì phòng không địch dầy đặc, 2 phi cơ C123 VNCH và 3 phi cơ C130 Mỹ đã bị địch bắn hạ. Phi cơ phải bay cao 6.000 bộ, dù mở tự động, bị gió đàn, nên hơn nửa số dù đã bay vào vùng địch.8 

Ngày 17 tháng 4, sáu chiếc C119 và C123 thả dù đều bị trúng đạn phòng không, chiếc C123 dẫn đầu bị nổ trên trời An Lộc, phi hành đoàn tử vong.8

Cuộc chiến đấu quyết liệt không ngừng của quân phòng thủ và các phi vụ oanh kích khiến Cộng quân không thể mở rộng được khu vực kiểm soát của họ trong phần Bắc thị xã.3


pastedGraphic_15.png


Thị xã An Lộc bị bao vây

pastedGraphic_16.png


Sơ đồ phối trí lực lượng bạn

(trước 13-4-1972)


pastedGraphic_17.png


Sơ đồ CSBV tấn công An Lộc lần 1 

(ngày 13-4-1972)


pastedGraphic_18.png


Trại Cảnh Sát Dã Chiến 302


pastedGraphic_19.png


Văn phòng CSDC 302




pastedGraphic_20.png


Ba T54 tiến vào đường Ngô Quyền 



pastedGraphic_21.png


Ba T54 đã bị hạ






Chương 12


GIẢI TỎA QUỐC LỘ 13 LẦN 1



Quân đoàn 3 quyết tâm khai thông QL13. Lực lượng tham dự có Lữ đoàn 1 Nhảy dù (ND) và Thiết đoàn 5 Kỵ binh.

Ngày 06 tháng 4, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Dù với 3 Tiểu đoàn 5, 6 và 8 do Đại tá Lê Quang Lưỡng chỉ  huy, được chuyển đến Lai Khê. Lữ đoàn được tăng phái Thiết đoàn 5 đi từ Lai Khê đến Chơn Thành để mở đường vào An Lộc.

Ngày 07 tháng 4, Tiểu đoàn 8 Dù do Trung tá Văn Bá Ninh chỉ huy, vượt tuyến xuất phát, lấy QL13 làm chuẩn, đội hình mở rộng đến ngang hoành độ 48 dừng lại. 

Tiểu đoàn 5 Dù do Trung tá Nguyễn Chí Hiếu chỉ huy, qua mặt tiến lên. Khi đến Bàu Hót, Tiểu đoàn bị địch phục kích cấp tiểu đoàn. Trận đánh kéo dài nửa ngày, địch rút đi. Kết quả, Dù 3 chết, 16 bị thương; địch 1 chết, bỏ lại1 súng AK.

Tiểu đoàn 6 Dù do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy, trấn giữ đoạn đường từ Lai Khê đến ấp Đông Sổ, cách Bắc Lai Khê 4 cây số.

Tiểu đoàn 8 Dù khi tới 2 cây số gần Bầu Hót, bị địch pháo đạn cối 82 ly, vô sự. Tiểu đoàn 5 Dù khi ra khỏi Bầu Hót 1 cây số lại bị chận đánh. Tiểu đoàn phản công, địch 8 chết. 

Ngày 08 tháng 4, Dù gần đến Chơn Thành. 

Ngày 09 tháng 4, Tiểu đoàn 6 nhảy lên Bắc Chơn Thành. Xong trở bộ quay lại Chơn Thành, Tiểu đoàn 5 từ Bàu Hót chạy vọt lên, 2 giờ chiều bắt tay ở Chơn Thành. Thừa đà đi, 5 Dù lên Bắc Chơn Thành 3 cây số hạ trại. 

Ngày 10 và 11, Lữ đoàn đã đi được 30 cây số. 

Ngày 12 tháng 4, TĐ8, Pháo và Thiết Kỵ từ cực Nam qua mặt Chơn Thành, đến ngang TĐ5 bỏ pháo lại, tiếp tục lên hướng Bắc. 

Tiểu đoàn 8 vừa tới cách Tàu Ô 1 cây số 300 thước, bị Trung đoàn 209 Công trường 7 CSBV chận đánh. Tiểu đoàn phản công, địch 20 chết, 1 cối 82 ly, 1 trung liên, 2 B40, 1 AK bị tịch thu. 

Ngày 13 tháng 4, TĐ8 bị vây kín, TĐ5 bị pháo, TĐ3PB tê liệt. Đại tá Đức, Thiết đoàn trưởng 1/5 tử thương. Lê Lợi và TĐ6 ở Chơn Thành cũng bị pháo.

Ngày 14 tháng 4, khi đến gần Tàu Ô, nơi Cộng quân đã đóng chốt kiềng, Lữ đoàn 1 Dù vì nhu cầu tiếp cứu An Lộc đã được trực thăng ra khỏi QL13, lên phía Đông Nam An Lộc.1

Ký giả Phan Nhật Nam, nguyên Đại úy Nhảy Dù viết trong “Mùa hè đỏ lửa: bút ký chiến tranh”:

“Ngày 7 tháng 4, Tiểu đoàn 8 vượt tuyến xuất phát, lấy con đường làm chuẩn, hai cánh quân cùng tiến song song đội hình mở rộng không quá 300 thước cho mỗi bên đến ngang hoành độ 48 dừng lại. Tiểu đoàn 5 vượt qua mặt tiến lên, lục soát vừa phải, cố mở đội hình rộng, mấy trăm con người của Tiểu đoàn chìm hẳn vào màn xanh đậm cứng của rừng. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chí Hiếu kẹp sát ống liên hợp vào mang tai, linh cảm có những trầm trọng sắp xảy đến? Mười bốn năm chiến trận đã tạo thành những trực giác bén nhạy, rừng cao su im lìm - Địa thế quá lý tưởng cho một cuộc phục kích. Súng nổ, thoạt đầu chỉ có tiếng AK ở hướng đầu hàng quân, nhưng không đầy 5 phút, 5 phút ngắn chưa đủ để xua người lính chạy quá một gốc cao su, cối và pháo binh nổ… Hiếu đo lường thật nhanh hỏa lực của địch: Phía trái, dọc đường này có nhiều tiếng súng cá nhân, cánh quân trái phải đánh ngay vào để bám sát mới tránh được pháo…Đúng như anh ước tính, tiểu đoàn Cộng nằm một hàng dọc trên mô đất của đường xe lửa cũ đang thực tập tác xạ vào lính Nhảy Dù. Xung phong vào trái! chỉ còn một đường này. Cộng quân không bỏ vị trí tốt, trận đánh dằng dai ngang ngửa, một nửa ngày qua, lính Bắc rút đi…Thương binh nằm chật rừng cao su, dựa lưng vào thân cây…Hiếu nhìn bản đồ: Bàu Hót toa độ 780510. Từ đây đến An Lộc còn bao nhiêu cái bàu nữa…Chiến trường mới qua được một ngày – Món ăn chơi đầu tiên đã khó nuốt.

Từng cây số một bước lên, độ cao cứng rắn của chiến trường càng rõ, gần đến Chơn Thành rồi, đã “ngửi” được mùi địch, địch cùng pháo và cối, chắc sẽ đầy đủ và mãnh liệt hơn kỳ Hạ Lào; và Hạ Lào nơi rừng phòng không nhân tạo tua tủa như cây trời. “Lê Lợi” nặng mặt, khoảng trán cao nhăn nhăn mấy cái.

- Quyền, cố gắng xin mấy cái trực thăng để ngày mai mình “thẩy” thằng 6 trên Chơn Thành và cho lục soát ngược về.

Hôm nay là ngày thứ hai (8-4) của kiểu “chân chim”, nếu cứ tiếp tục thêm một ngày nữa. Cộng quân không tiếc gì để “chặt chân”, phải có một kế hoạch khác: lục soát ngược lại. Quyền nhìn “xếp” thán phục. Lê Lợi quả là con beo thật, một con beo gấm già không chút sơ hở.

Ngày 9, Tiểu đoàn 6 nhảy cú bất thần lên phía Bắc Chơn Thành. Không khai triển được chiều rộng thì biến thế theo chiều dài, có luật nào bắt buộc tiến quân phải theo thứ tự Nam - Bắc? Xong trở bộ quay lại Chơn thành, Tiểu đoàn 5 từ Bàu Bàng chạy vọt lên, 2 giờ chiều “link up” (bắt tay) cái rụp ở Chơn Thành. Tốt, Lê Lợi gật gù: Tụi nó không biết mình làm trò gì với cú nhảy của thằng 6, đi lên hay xuống…Tiên sư nó cũng không biết được. Thừa đà đi, 5 Dù lên thẳng phía Bắc cách Chơn Thành 3 cây số hạ trại. Ngày bình yên đi qua, Đại tá Lưỡng cởi đôi giầy lần đầu kể từ ngày N, bộ tham mưu bắt chước… Mỗi buổi chiều cởi được giày là hạnh phúc rồi. Hạnh phúc, giá càng ngày càng rẻ.

Thêm 2 ngày đẹp đẽ đi qua, Lữ đoàn đã đi được trên ba mươi cây số, 30 cây số cho 6 ngày kể ra quá chậm trên địa thế dễ di chuyển này. Nhưng làm thế nào để đi nhanh hơn, thiết đoàn 1/5 tăng phái tuy rất chịu khó cày và lội theo cùng Nhảy Dù nhưng nhiệm vụ không cho mở vào sâu và vào sâu thì lại lún lầy…Những con voi sắt dũng mãnh tới lui nặng nề, chậm theo bước tiến bộ binh. Ngày 12, kể từ Bắc xuống Nam theo thứ tự là Tiểu đoàn 5, 6 ở Chơn Thành. 8 và Pháo binh (TĐ3PB Dù) ở cực Nam: lại theo chiến thuật “chân chim”, TĐ8, Pháo và Thiết Kỵ nhảy bước lớn từ cực Nam qua mặt Chơn Thành, đến ngang TĐ5 bỏ pháo lại, tiếp tục lên hướng Bắc…Lê Lợi đóng ở Chơn Thành cùng Tiểu đoàn 6 theo dõi thằng con (TĐ8) tiến quân…

- Tốt, nó tới được suối Tàu Ô, tụi mình chỉ còn cách An Lộc trên mười cây số, hy vọng tuần sau mình “đụng” nó… Hy vọng như thế.

Nhưng hy vọng của Lê Lợi vỡ tung như bong bóng nước dưới trời mưa nặng hạt. Tiểu đoàn 8 vừa đặt chân qua hoành độ 72 cách Tàu Ô 1 cây số 300 thước thì đụng. Cộng quân không thèm ngụy trang ngồi sẵn trên đường chờ…

Thôi rồi, Lê Lợi rung tay, chiếc combiné ép vào tai nghe báo cáo:

- Tụi nó gom tôi và ông Đức (Thiết đoàn trưởng 1/5 chiến xa) thành vòng tròn rồi…Pháo quá dữ, “đề lô” tụi nó theo sát đáy, nó bắn không phí một quả, nó “đi tiền” quá nhiều nó “tapi” tôi…

“Bắc bình” Đoàn thiện Tuyển, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù nói nhanh như khi bốc con bài thứ 5. Tuyển cũng là Tuyển “Táp” hỗn danh nghe thì kinh nhưng lại là người nhỏ con, vui tính, nhanh như sóc, “táp” chỉ là một tĩnh từ để mô tả chân dung người thêm xác đáng. Tuyển lại tiếp tục báo cáo: “Tụi nó bâu như kiến…bắn quả M72 vào cây cao su kia… trình Lê Lợi cho gunship lên…bảo thằng Vân “mu” (di chuyển) lên chút nữa bung rộng ra mới được…Dạ, dạ tôi nói thằng con tôi cố gắng!!” Vừa báo cáo với Lữ đoàn trưởng vừa điều động các đại đội, Tuyển nói như một cái dĩa chạy quá tour. Tuyển “Hỏa Tiễn”, thêm một biệt hiệu khác theo với tên anh.

Sau Tiểu đoàn 8 là Tiểu đoàn 5, 55 Nguyễn Chí Hiếu vẫn giữ giọng đỉnh đạc, chậm rãi và sắc:

- Trình Lê Lợi, tôi chưa kịp có vị trí, pháo binh cũng thế và tụi nó pháo quá dữ. Dạ, pháo từ xa, cối gần hơn và B40, 75 không giật thì chỉ cách tôi dưới 50, dứt.

Lê Lợi thả combiné xuống - Sự kiện bắt buộc xảy ra, không thể tránh theo chiều nào được. Pháo không phải từ một vị trí, pháo trận địa, pháo “vùng”, pháo TOT (tác xạ tập trung từ nhiều nơi) và chính ngay tại Chơn Thành, PC (bộ chỉ huy) của Lê Lợi cũng bắt đầu “co lại” pháo nổ xuống…

Ngày 13, tình hình như c…Thằng 8 bị vây, thằng 5 bị pháo và Chơn Thành thì nhúc nhích không được, Lê Lợi vất bỏ cái máy, ông không muốn nghe thêm một chữ nữa - Đại tá Đức, thiết đoàn trưởng phối hợp hành quân chết - chiếc trực thăng chỉ huy vừa bốc lên khỏi cao độ hơn 10 thước, viên đạn oan nghiệt kết thúc đời người anh hùng mũ đen - Đại tá Đức, mắt sáng nụ cười tươi, hàng ria mép đen nháy vừa mới phút trước đây còn anh tôi hàn huyên thân ái, mới phút trước đây: anh để tôi lên xem “thằng con” như thế nào… Chết rồi, người bằng hữu lừng lững đi vào hư không. Đại tá Lưỡng cúi mặt xuống. Con beo gấm thất thủ.

8 bị vây kín, 5 bị pháo cô lập, Tiểu đoàn 3 pháo binh tê liệt, vị trí dã chiến chưa có đủ thời gian để chuẩn bị. Lữ đoàn và TĐ6 ở Chơn Thành kẹt cứng trong vòng đai chi khu, Lê Lợi thiết kế cùng với thiết đoàn 1/5 bung rộng qua phía Đông để tấn công lên hướng Bắc, hai chiến xa mở đường vừa vào chưa được 3 cây số bị kẹt cứng bởi hệ thống đầm lầy, suối con, bàu nước đan vào nhau chằng chịt…

Rút tất cả về lại Chơn Thành giao vùng trách nhiệm và con đường “khốn nạn” lại cho Sư đoàn 21. Lữ đoàn nhận nhiệm vụ mới. Đại tá Lưỡng thở hơi ngắn: Bỏ được đường 13 thì tốt rồi nhưng nhiệm vụ sắp tới sẽ như thế nào?”5

pastedGraphic_22.png




Chương 13


CSBV TẤN CÔNG AN LỘC LẦN 2

15-4-1972



Ngày 14 tháng 4, An Lộc bị siết chặt trong vòng vây chừng vài cây số vuông. Cộng quân pháo suốt ngày vào thị xã, tập trung hỏa tiễn 107 ly về phía tiểu khu. Trong số này, 1 quả trúng Trung tâm Quản trị Tiếp vận, 2 quả trúng Bộ chỉ huy Tiểu khu Bình Long, 1 quả vào nhà thờ Tỉnh làm 13 người dân bị thương. Phòng không địch hoạt động mạnh mẽ, phi cơ không thể đáp xuống được.

Đáp lại, phi cơ Việt Mỹ kể cả oanh tạc cơ B52 đã bỏ bom rất dữ dội quanh thị xã vào những nơi nghi ngờ, để làm tiêu tan ý định tấn công của địch.

Lúc 14g30 các toán quân Dù tăng viện đầu tiên đã được trực thăng vận xuống khu đồi Gió, sẽ tiến vào giải tỏa An Lộc.

Đêm 14 rạng 15 tháng 4, Cộng quân gia tăng pháo kích vào các tuyến phòng thủ phía Bắc và phía Tây, trên 6.000 quả đạn pháo đủ loại. Các khu phố trong Thị xã đổ nát điêu tàn.

Ngày 15 tháng 4, Bộ tư lệnh Tiền phương R dùng Công trường 9 CSBV tấn công cố chiếm Thị xã An Lộc. Cộng quân dùng Tiểu đoàn 171 xe tăng cùng với xe tăng của Trung đoàn 26 tấn công vào quân phòng thủ. Trong khi đó, Công trường 7 phục kích dọc QL13 để chặn quân tăng viện.3

Kế hoạch tấn công sẽ cắt thị xã làm 2 phần. Sau đó, sẽ đánh bại từng phần để phân tán phi pháo của Không quân Việt Mỹ vì lần tấn công trước đã làm họ thất bại.

1. Lúc 06 giờ sáng, từ phía đồi Đồng Long, Trung đoàn 272 Công trường 9 CSBV được tăng cường 1 đại đội chiến xa chỉ còn 5 chiếc và các toán phòng không, chia quân làm hai mũi, khai hỏa đủ thứ hỏa lực như đại bác 100 ly trên chiến xa, 75 ly không giật, cối 82 ly, chiếm phi trường và chiếm rộng hơn các phố xá ở khu vực Bắc thị xã. Các toán phòng không địch tiến chiếm các cao ốc để đợi bắn máy bay. Chiến xa địch theo các con đường lớn tiến sâu vào thị xã. 

07giờ, phòng tuyến phía Bắc của Trung đoàn 8 BB bị chọc thủng, nhưng quân bạn nhờ sự yểm trợ táo bạo của không quân đã chận được bộ binh địch ngang đường Hùng Vương. Chiến xa địch đã xông vào các đường phố. Quân ta đã bình tĩnh chờ chiến xa địch đến và lần này ngoài khẩu M72 họ còn dùng B40, B41 lấy được của VC và làm mìn ứng chế bằng đạn pháo 105 và 155 ly núp trong các cao ốc, các hầm tạm, nhà đổ nát để săn tăng. Chiếc thứ nhất chạy vào đường Nguyễn Du bị Tiểu đoàn 36 BĐQ hạ, chiếc thứ hai đến chợ Mới bị phi cơ oanh kích cháy, chiếc thứ ba chạy vào vườn Tao Phùng bị Pháo đội C, Tiểu đoàn 52 Pháo binh dùng khẩu 105 ly còn lại trực xạ, chiếc thứ tư và chiếc thứ năm chạy tới gần Chợ Cũ bị quân sĩ Trung đoàn 8 bắn hạ.1 

2. Trung đoàn 271 được yểm trợ 1 đại đội chiến xa chỉ có 5 chiếc tấn công vào phía Tây thị xã và trên đường tiến quân bị trúng B52. Bộ chỉ huy trung đoàn và một tiểu đoàn đã bị tiêu diệt ở đồn điền Xa Cát, 4 cây số Tây An Lộc, nên bị tê liệt.3

Cuộc tấn công phía Tây An Lộc bị bãi bỏ. Trung đoàn 272 tuy cố gắng chiếm được phần lớn thị xã, nhưng lại bị đẩy lui vì lực lượng phòng thủ VNCH đã điều động được các đơn vị khác đến tiếp ứng.

Kết quả, bạn 18 chết, 89 bị thương, 38 mất tích, mất 3 M16, một PRC25, một AIH Mỹ bị hạ trong lúc yểm trợ; địch 13 chết (chưa kể Bộ chỉ huy Trung đoàn 271 và một tiểu đoàn bị B52 diệt gọn nói trên), 1 bị bắt, bỏ lại 3 súng cộng đồng và 7 súng cá nhân, 10 chiến xa bị hạ. 

3. Tình hình An Lộc rất trầm trọng, có thể mất vào tay địch nếu không có quân tăng viện. 

Trung Úy Lê Minh Hùng, Đại đội trưởng Đại đội 2 Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 8 BB VNCH viết:

“Sau khi được Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 3/8 di chuyển lên tuyến đầu để tăng cường cho hai Tiểu Đoàn 1 và 2 đang quần thảo với địch quân, và đang bị áp lực địch phải lui dần về phía Nam, chúng tôi thấy có 2 T.54, đang chỏng gọng gầm rú, vì sụp hố, cố ngoi lên, liền bị một lượt 2 quả M.72 khịt ra từ các chiến binh Tiểu Đoàn 3/8, tức thì bốc cháy, các xạ thủ và tài xế trên chiến xa địch vội mở nắp pháo tháp, nhảy phóc ra ngoài, liền bị các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 3/8 bắn hạ ngay tại chỗ. Anh em hăng máu, vác súng khơi khơi đi lùng chiến xa địch để bắn hạ, quên cả Bộ Binh địch đang “bám trụ” cận kề, chúng xả AK.47 bắn lại, gây cho một vài chiến sĩ phải hy sinh và bị thương. Địch thấy các chiến sĩ Tiểu Đoàn 3/8 xuất hiện bất thần và đánh hăng quá, nên chạy thối lui trở lại, nhờ vậy, cả Ba Tiểu Đoàn 1, 2, 3 thuộc Trung Đoàn 8 Bộ Binh, được lợi thế chận đứng được địch, trên một lằn ranh cố định, không bên nào lấn chiếm thêm được tấc đất nào.”

Ngày 16, 17 và 18 tháng 4, Cộng quân tiếp tục pháo vào thị xã, khoảng ngàn trái mỗi ngày. Lực lượng hai bên rất gần nhau. Phi pháo vẫn tấn công các vị trí tình nghi tập trung Cộng quân phía trước các tuyến phòng thủ của quân VNCH. Thị xã vẫn khan hiếm mọi thứ, không được tiếp tế và tản thương vì hỏa lực pháo quá mạnh của Cộng quân.3

4. Ngày 18 tháng 4, Bộ Tư Lệnh Mỹ quyết định dùng Không đoàn vận tải cơ C130, có hệ thống thả dù tự động (Computerized Aerial Drop System), bay vào ban đêm. Điểm thả dù tiếp tế là Sân vận động. 

Hai C130, từ phía Đông Nam (tránh QL13), bay cao 2.000 bộ. Khi gần đến mục tiêu, chiếc đầu bị trúng đạn phòng không địch, phải bay là xuống thấp 600 bộ thả hàng. Chiếc thứ hai đổi hướng bay đến mục tiêu, bị phòng không địch bắn cháy một động cơ bên trái và sát hại một sĩ quan cơ khí, một phi công phụ. Phi công chính điều khiển phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong đêm an toàn, mang về 26 tấn hàng, không thả được dù nào.


pastedGraphic_23.png

pastedGraphic_24.png


Sơ đồ CSBV tấn công An Lộc lần 2

(ngày 15-4-1972)




pastedGraphic_25.png


M72 LAW đã sẵn sàng diệt chiến xa


pastedGraphic_26.png


Chiến xa T54 trên công viên Tao Phùng


pastedGraphic_27.png


Xe phòng không ZSU57


pastedGraphic_28.png


Thị xã An Lộc đổ nát





Chương 14


LỮ ĐOÀN 1 NHẢY DÙ VÀO AN LỘC

14-4-1972



Tình hình An Lộc rất khẩn trương, địch bao vây thị xã và áp lực rất mạnh.

Ngày 14 tháng 4, tại Trung tâm Hành quân ở Lai Khê, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3 họp với Trung tướng Dư Quốc Ðống, Tư lệnh Sư đoàn Dù và Ðại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Dù thảo luận việc đưa Lữ đoàn 1 Nhảy Dù và Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù (BCD) vào An Lộc tăng viện.

Tướng Minh quyết định rút Lữ đoàn 1 Dù ra khỏi lực lượng hành quân giải tỏa QL13, trực thăng vận xuống khu đồi Gió, 3 cây số Đông Nam An Lộc. 

Sau cuộc họp, Đại tá Lưỡng đã bay năm vòng quan sát địa thế. Bãi đáp được chọn là một đoạn đường nhựa chạy ngang qua ấp Srok Ton Cui. Nơi này tương đối an toàn, với những đồi cao ở phía Bắc che dấu. Khu đồi Gió có đồi 169 thước ở phía Nam, 150 thước ở giữa và ấp Srok Ton Cui, ở phía Đông Nam, không còn dân. 13 phi xuất khu trục và 3 phi vụ B52 đã oanh kích nơi đây để dọn bãi đáp.

14g30, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 6 Dù được trực thăng vận xuống điểm đã chọn. Đại đội 62 do Đại úy Ngô Xuân Vinh chỉ huy, nhảy xuống một trảng trống giữa đồi 169 và hương lộ, một cây số Tây Nam ấp Srok Ton Cui. Kế đó, Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 6 với Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, Tiểu đoàn trưởng và Đại đội 61 nhảy xuống.

Trung tá Đỉnh xua quân lên chiếm đồi Gió và đồi 169; khẩu pháo 105 ly tại An Lộc đã bắn yểm trợ cho mục tiêu 3 quả. Trên đồi Gió chỉ có một toán địch làm tiền đồn, đã bị Đại đội 62 trấn áp. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn lên theo. Đại đội 61 cũng lên đồi 169 đóng quân.

16g30 chiều, khu đồi Gió vừa được chiếm xong thì địch bắn tập trung vào. Kết quả, Dù 5 chết, 58 bị thương; địch 9 chết, 1 bị thương, mất 2 súng cá nhân.

Trên đồi 169, Tiểu đoàn 6 đã gặp được 2 đại đội Biệt động quân thuộc Tiểu đoàn 52 BĐQ từ An Lộc ra đây đóng tiền đồn.

Ngày 15 tháng 4, lúc 16 giờ, hai Tiểu đoàn 5 và 8 xuống bãi đáp cũ bình yên. Đại tá Lưỡng quyết định, lực lượng Dù sẽ tiến về An Lộc theo thế gọng kềm, trên 2 cánh quân của các Tiểu đoàn 5 và 8 cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn.

Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 6 và các Đại đội 60, 61, 62 đóng tại đồi 150 với Pháo đội B 105 ly thuộc Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù, yểm trợ pháo cho các cánh quân tiến về An Lộc.

Đại đội 63 giữ ngã ba hương lộ, 700 thước Bắc ấp Srok Ton Cui. Đại đội 64 đóng tại ấp Srok Ton Cui.

Đại đội 3 Trinh sát Dù, Đại đội 3 Công binh Dù và Bộ chỉ huy nhẹ Lữ đoàn do Trung tá Lữ đoàn phó Lê Văn Ngọc chỉ huy, đóng trên đồi 169.

Ngày 16 tháng 4, Tiểu đoàn 8 hợp với 2 đại đội Biệt động quân vừa gặp, do Trung tá Văn Bá Ninh chỉ huy, tiến bên trái về cuối ấp Phú Hòa, không gặp trở ngại nào và đã vào được phòng tuyến của Tiểu khu lúc 07 giờ ngày hôm sau.

Trong khi đó, Lữ đoàn trưởng Lê Quang Lưỡng đi theo cánh quân Tiểu đoàn 5 do Trung tá Nguyễn Chí Hiếu chỉ huy, tiến bên phải về ấp Sóc gòn. Lúc 09g30, khi vừa lên ngọn đồi ở giữa ấp Sóc Gòn và đầu ấp Phú Hòa thì đụng mạnh với một trung đoàn thuộc Công trường 5 CSBV. Địch tấn công biển người, quân Dù phản công mãnh liệt, đến 10g30 địch rút lui. Lúc 12 giờ, địch lại tấn công với 4 chiến xa. Kết quả, bạn 3 chết, 13 bị thương; địch 85 chết, bỏ lại 7 súng cộng đồng và 20 súng cá nhân, 4 chiến xa bị hạ.

Không quân Việt Mỹ đã yểm trợ các lực lượng Dù tối đa. Ấp Sóc Gòn với 300 thước vuông đã bị hoang tàn với hơn 30 thảm bom.

Sau đó, quân Dù được tiếp tế và tải thương, rồi đóng quân đêm tại một sườn đồi, cách trận đánh 1 cây số về phía Bắc. 

Ngày 17 tháng 4, lúc 05g30 sáng, địch lại pháo và tấn công Tiểu đoàn 5, từ hướng Bắc, Đông Bắc và Nam. Tiểu đoàn phản công. Kết quả, địch 30 chết, bỏ lại 6 súng cộng đồng và 5 súng cá nhân. Sau đó, Tiểu đoàn tiến về mục tiêu đã định.

10 giờ, Tiểu đoàn đến đường rầy xe lửa phía cổng Quản Lợi, bị địch chận đánh trước các hầm hố sâu. Đại tá Lưỡng đưa một đại đội lên, len lỏi vào và đánh cận chiến. Tiểu đoàn tiếp tục di chuyển, với những toán nhỏ, tiến từ hầm này sang hầm khác. 

Đến trưa, Tiểu đoàn 5 vào vòng đai An Lộc. Đúng 13 giờ, Đại tá Lưỡng bắt tay Chuẩn tướng Hưng. Đây là lúc đáng nhớ nhất. Quân trú phòng đã được quân tăng viện đến kịp thời.

Tướng Hưng cho biết tình hình An Lộc. Ðịch đã bao vây và áp sát. Phi trường và khu Bắc thị xã đã bị chiếm. Đặc công địch đã vào khu chợ Mới, ấp Thánh mẫu, đại lộ Trần Hưng Đạo giữa chợ và công viên Tao Phùng. Địch không tập trung quân vì sợ phi pháo và chỉ duy trì các ổ kháng cự thật mạnh để chống lại những cuộc phản công của QLVNCH. Dân chúng và Cộng quân lẫn lộn, Không quân không thể dùng hỏa lực một cách mạnh bạo. 

Tiểu đoàn 8 Dù sau khi tiến quân vô sự vào thị xã, được lệnh tiến vào đại lộ Trần Hưng Đạo, mở cuộc hành quân tiếp vượt qua cổng Phú Lố, qua ngả phía Tây, nơi có rừng cao su rậm rạp. Tiểu đoàn vừa tiến ra khỏi vòng đai 700 thước, bị địch pháo như mưa bằng đại bác 75 ly và cối 82 ly. Vài vụ chạm lẻ tẻ. Kết quả, bạn 12 chết, 62 bị thương; địch 3 bị bắt.

Cùng ngày, lúc 13 giờ, Đại đội 63 Tiểu đoàn 6 Dù, ở mé đồi trên ngã ba đường 245, khu vực đồi Gió, bị Cộng quân tấn công. Trận đánh càng ác liệt về chiều, Đại đội 64 từ ấp Srok Ton Cui được lệnh tới tăng cường, trận đánh kéo dài suốt đêm. Một phi tuần Daisy Cutter được Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 6 hướng dẫn, oanh kích dữ dội vào phía Bắc Đại đội 63. Địch chết nhiều nhưng Dù cũng nhiều binh sĩ bị thương. Các Đại đội 63 và 64 được điều động trở về đồi Gió, Đại đội 61 Dù xuống thế vùng.

Tiểu đoàn 8 Dù tiếp tục hành quân xuống phía Nam, đóng quân ở cổng Xa Cam, rồi lục soát quanh vị trí này vào buổi chiều. Quân Dù chạm nặng với địch. Kết quả, Dù 10 chết, 53 bị thương; địch 42 chết, 4 súng cộng đồng và 2 súng cá nhân bị tịch thu. 

Tiểu đoàn 5 Dù cũng được lệnh hành quân xuống khu vực Xa Cam.1


pastedGraphic_29.png


Nhảy Dù vào An Lộc


pastedGraphic_30.png

Lữ đoàn 1 Dù vào An Lộc





Chương 15


LIÊN ĐOÀN 81 BCD VÀO AN LỘC

16-4-1972



Ngày 16 tháng 4, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù (BCD) do Trung tá Phan Văn Huấn chỉ huy, gồm 4 Đại đội xung kích và 4 toán Thám sát, thường hoạt động biệt lập từng toán nhỏ với kỹ thuật tác chiến rất cao. Liên đoàn tương đương với cấp trung đoàn, nhưng quân số chỉ bằng một tiểu đoàn. 

10 giờ sáng, từ Tây Ninh, Liên đoàn 81 BCD được chuyển bằng trực thăng Chinook CH46 đến Lai Khê, với 550 chiến binh trang bị đầy đủ. 

12 giờ trưa, khi kho đạn Lai Khê bị đặc công địch phá nổ là lúc Liên đoàn sẵn sàng tại phi trường để được trực thăng vận vào An Lộc.

Điểm đổ quân là một vùng trống cạnh suối Rô, gần chỗ đổ quân của Lữ đoàn 1 Dù vài ngày trước.

45 chiếc trực thăng HU1D với hai đợt đổ quân mới chuyển quân xong lúc 16 giờ chiều.6

Từ đây, Trung tá Huấn đã gặp được Lữ đoàn phó Lê văn Ngọc chỉ huy quân Dù đóng tại đồi 169 và liên lạc được với Chuẩn tướng Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 BB. Liên đoàn được yêu cầu tìm cứu một đại đội Biệt động quân bị cô lập ngoài thị xã, đang thiếu thốn tiếp liệu. Liên đoàn đóng quân đêm tại đây. 

Ngày 17 tháng 4, Liên đoàn tiến về An Lộc theo đội hình chiến đấu, với những toán nhỏ. 

Buổi trưa, Liên đoàn bất ngờ bị máy bay oanh kích lầm, 2 binh sĩ bị thương, đã được trực thăng đến di tản. Sau đó, Liên đoàn gặp được đại đội Biệt động quân bị cô lập. Tiếp tục đi về hướng Tây Bắc, Liên đoàn vào rừng cao su Phú Hoà. 

Buổi chiều, Liên đoàn tiến chiếm ấp Sóc Gòn đã bỏ hoang, trong an toàn vì địch vừa rút ra. Liên đoàn đóng quân đêm trong những công sự chiến đấu đã có sẵn của Cộng quân, sau khi liên lạc được với Tiểu đoàn 8 Dù ở rừng cao su phía Bắc. 

Ngày 18 tháng 4, sáng sớm, từ ấp Sóc Gòn, Liên đoàn tiến quân thật nhanh về hướng An Lộc.

Buổi trưa, Liên đoàn vào được ngôi làng cạnh ga xe lửa. Xế chiều, Liên đoàn tiếp giao được với phòng tuyến của Trung đoàn 8 BB và Liên đoàn 3 BĐQ, phía Bắc thị xã.

Liên đoàn được lệnh mở cuộc tấn kích ngay đêm đó vào các khu phố mặt Bắc, chiếm lại phần đất đã mất.1 Biệt Cách Dù vượt qua đường Trần Hưng Đạo, tiến vào chợ Mới, bến xe, ấp Thánh Mẫu để kiểm soát khu vực này. 

Thiếu tá Nguyễn Văn Lân, Trưởng ban 3 Liên đoàn 81 BCD, viết về trận đánh đêm 18 tháng 4:

“… 12 giờ đêm, chúng tôi lay nhau để biết chắc không ai ngủ quên, nai nịch lại cho chặt. Chúng tôi có súng nhưng chỉ dùng lựu đạn và lưỡi lê, nghĩa là giết địch mà không để lộ hình tích. Chiến trường An Lộc đêm lịch sử đó là của chúng tôi. Đơn vị bạn ở các mặt khác dường như đang nín thở theo dõi xem chúng tôi làm ăn ra sao. Trước đó chúng tôi đã yêu cầu họ hỗ trợ bằng cách không thả trái sáng các loại, vì lối đánh đêm rất kỵ ánh sáng. Chúng tôi khó tránh gây những tiếng sột soạt khi qua những chướng ngại, nhưng chó hoang, heo, bò, gà bị pháo chạy gây tiếng động cũng nhiều. Quanh chúng tôi, tiếng người rên rỉ, tiếng súc vật kêu la, kinh khiếp hơn cả tiếng chó tru từng hồi bên xác người. Chúng tôi dẵm phải những đống bầy nhầy, phần nhiều là xác của người và vật, những vũng đen chắc chắn không phải là nước. Chúng tôi phải dè chừng, tránh hụt chân rơi xuống các miệng giếng. Chúng tôi bò, trườn, leo chậm rãi và chắc chắn về phía trước, trong đêm ghê rợn. Từng lúc, từng lúc những tên địch rú lên trước khi gục chết vì bị đâm bằng dao, nhiều tên quằn quại rên la vì lựu đạn chúng tôi ném banh xác. Đêm ma quái bị khuấy động từng chập bởi âm thanh đó. Binh sĩ của chúng tôi thần kinh căng thẳng, nhưng mắt mở lớn để nhìn, tay gồng cứng để đâm và mềm mại khi buông những  trái lựu đạn vào miệng hầm. Chưa bao giờ họ bị đòi hỏi phải điệu nghệ như lúc này và họ đã làm được điều đó. Suốt ba giờ quần thảo trong tối với địch, chúng tôi chỉ có giết chớ không bị giết khiến ai nấy vững lòng. Tôi gọi Hổ Xám (Đại úy Tài) đang chỉ huy ĐĐ3 và ĐĐ 4 cánh phải, khoái trá ví von binh sĩ mình với những con mèo phù thủy. Qua giờ thứ 4, chúng tôi gặp một tai nạn nhỏ vì ngộ nhận khiến một đồng bạn bị thương nặng, mất hơn một giờ lo săn sóc và chỉnh đốn lại hàng ngũ. Điều này thế nào cũng xảy ra trong lối đánh đêm. Và cũng kể từ đó, địch quân dường như đã qua cơn thảng thốt, báo động cho nhau và bắt đầu kháng cự mạnh…”1


pastedGraphic_31.png


Biệt Cách Dù vào An Lộc

pastedGraphic_32.png





Chương 16


CSBV tấn công An Lộc lần 3

19-4-1972



Ngày 18 tháng 4, sáng sớm, thị xã thật căng thẳng. Hai chiến xa T54 xuất hiện, đến gần hầm chỉ huy của Tướng Hưng 200 thước bắn trực tiếp vào hầm và giết chết 3 sĩ quan. Chiếc này đã bị phi cơ bắn hạ. Chiếc kia bỏ chạy.3

Buổi chiều, một C130 tiếp tế bị phòng không địch bắn cháy, 6 nhân viên phi hành được trực thăng cứu thoát, trong đó có 2 bị thương.1

Ban đêm, CSBV liên tục pháo đủ loại đạn vào thị xã An Lộc và gia tăng bắn hỏa tiễn 107 ly vào khu đồi Gió, Đông Nam thị xã.

Ngày 19 tháng 4, sáng sớm, ba Trung đoàn 271, 272 và 95 của Công trường 9 CSBV được xe tăng yểm trợ tấn công thị xã An Lộc. Đồng thời, hai Trung đoàn 275 và 141 của Công trường 5 và 7 CSBV có xe tăng yểm trợ, tấn công đồi Gió, vị trí của Tiểu đoàn 6 và Pháo đội Dù có 6 khẩu 105 ly. Trong khi đó, Công trường 7 CSBV cắt đứt QL13 để chặn quân tăng viện.3

1. Mặt Bắc:

Ngày 19 tháng 4, buổi sáng, Biệt Cách Dù được lệnh phản công lên phía Bắc, nơi Cộng quân chiếm giữ. BCD bị địch chận lại trên phòng tuyến chạy ngang qua chùa Từ Quang và trại Cảnh Sát Dã Chiến. Địch tấn công mạnh, BCD phải chiến đấu với địch giữa ban ngày. Với những toán nhỏ, tổn thất tương đối nhẹ. Hai cố vấn Mỹ, Đại úy Huggins và Thượng sĩ Yearta rất đắc lực với những phi tuần được gọi đến oanh kích liều lĩnh trên lưới phòng không. Đối lại, địch pháo dữ dội vào phòng tuyến quân bạn. Để tránh pháo và dễ tung lựu đạn, các toán BCD bò sát về phía địch. Phi cơ oanh kích thực sát, cách quân bạn chỉ chừng 100 thước. 

Xế trưa, địch tấn công mạnh hơn vào sườn quân bạn. Vì quân số ít nên không đủ để vừa tiến vừa giữ phần đất đã chiếm, bên trái lại trống và đang chịu áp lực địch từ ngoài thị xã vào, Trung tá Huấn phải ra lệnh ngưng tấn công và rút lui về phía sau. 

Ban đêm, BCD nghỉ ngay trên chiến tuyến vừa chiếm được. 

Ðại Úy Phạm Châu Tài, Đại đội trưởng Ðại Ðội 3 Xung Kích BCD, viết trong An Lộc chiến trường đi không hẹn:

“Mặc dù đã chiếm lại toàn bộ khu vực phía Bắc, nhưng vẫn còn một ổ kháng cự mà Cộng quân vẫn cố thủ bên trong, đó là đồn Cảnh Sát Dã Chiến. Biệt cách Dù tấn công nhiều đợt nhưng vẫn chưa vào được. Hơn nữa, từ đồi Ðồng Long, Việt Cộng dùng đại bác 57 ly, sơn pháo 75 ly và súng không giật 82 ly bắn trực xạ vào Biệt cách Dù để yểm trợ cho bọn chúng cố thủ bên trong đồn. Cố vấn Huggins của Biệt cách Dù vào ngay tần số của Lữ Ðoàn 1 Không Quân Hoa Kỳ xin yểm trợ hoả lực. 

Hai chiếc phi cơ AC130 Spector bay lượn trên vùng trời An Lộc với cao độ ngoài tầm sát hại của cao xạ và hoả tiễn địa không SA7, bắn từng quả đạn 105 ly hoặc từng loạt 3 quả đạn 40 ly vào mục tiêu yêu cầu được điều chỉnh từ dưới đất. Cuối cùng đồn Cảnh Sát lọt vào tay Biệt cách Dù vào lúc 4 giờ chiều. Phần nửa thành phố phía Bắc được chiếm lại sau gần 24 tiếng đồng hồ chiến đấu liên tục. Liên đoàn 81 Biệt cách Dù yêu cầu Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh điều động quân bạn hai bên cạnh sườn cùng tiến lên ngang hàng với quân Biệt cách Dù. Sự yêu cầu không được đáp ứng, vì quân số của quân trú phòng đã hao hụt và bất khiển dụng quá nhiều, do đó cạnh sườn của Biệt cách Dù bị bỏ trống. Lợi dụng sơ hở này, Cộng quân phản công mãnh liệt bằng hai mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trực diện từ hướng đồi Ðồng Long có sự yểm trợ của cối 61 ly, cối 82 ly và sơn pháo 75 ly, mũi thứ hai từ phía Tây đánh thốc vào ngang sườn với quân số khá đông. Trước tình huống phải đối đầu phía trước mặt và phía ngang hông, Biệt Cách Dù phải rút quân về phía khu chợ Mới, tuy nhiên vẫn còn để lại một Ðại đội cố thủ trong đồn cảnh sát.

Ðồn cảnh sát đương nhiên trở thành một tiền đồn án ngữ lẻ loi phía Bắc Thị Xã, một tiền đồn bất đắc dĩ mà không thể nào bỏ trống được, và nơi đây là một cái gai mà Cộng quân bằng mọi cách phải nhổ đi, do đó muốn duy trì vị trí chiến thuật quan trọng đó, phải đổ máu rất nhiều. Biệt Cách Dù chấp nhận sự lựa chọn này để giữ vững tiền đồn suốt một thời gian dài.”6

2. Mặt Nam: 

Ngày 19 tháng 4, địch tấn công dữ dội vào khu vực của Tiểu đoàn 5 Dù, một cây số Nam thị xã ngay bên ngoài. Tiểu đoàn phản công đẩy lui quân CSBV. Không quân chiến thuật và Pháo đài bay B52 gây tổn thất nặng cho Cộng quân.3 Kết quả, bạn 6 chết, 21 bị thương; địch 35 chết, bỏ lại 6 súng cộng đồng và 6 súng cá nhân.

Ngày 20 và 21 tháng 4, Cộng quân tiếp tục pháo kích vào tuyến phòng thủ của quân Dù. 

Ðêm 22 rạng ngày 23 tháng 4, Cộng quân tấn công vào vị trí của Tiểu Ðoàn 8 Dù ở cửa Nam An Lộc. Cộng quân có 1 chi đội chiến xa với hai T54 và hai PT76. Quân Dù đã được trang bị súng bắn chiến xa mới XM202, có thể bắn liên tiếp 4 phát. Bốn chiến xa địch đều bị quân Dù bắn cháy. Bộ binh tùng thiết địch cũng bị đánh bật ra. Sau đó, Tiểu đoàn đã liên lạc được với một phi cơ AC130, trang bị đại bác 105 ly, bắn luôn một đội chiến xa địch gồm 5 chiếc đang di chuyển.

Cuộc tấn công chính vào An Lộc của CSBV đã không có kết quả. Cộng quân đã bị chận đứng, phía Bắc bởi BCD, phía Nam bởi Tiểu đoàn 5 và 8 Dù.3

3. Trận đồi Gió 

Ngày 19 tháng 4, Cộng quân pháo trên 2.000 quả 130 ly vào đồi Gió và đồi 169. Kho đạn trên 1.000 trái 105 ly phát nổ. 6 khẩu đại bác bị tê liệt.  

Lúc 21 giờ, theo lệnh Đại tá Lưỡng, Tiểu đoàn trưởng được toàn quyền quyết định. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và Đại đội 62 xuống đồi, tới đóng cùng Đại đội 61 ở ấp Srok Ton Cui. Đại đội 63 và 64 do Thiếu tá Phạm Kim Bằng, Tiểu đoàn phó chỉ huy ở lại giữ đồi.

Ngày 20 tháng 4, lúc 3 giờ sáng, địch tấn công đồi Gió. Sáu chiến xa T54 bật đèn theo hai hướng Đông và Đông Bắc tiến lên đồi. Quân Dù khai hỏa khi chiến xa còn cách 50 thước. Hai chiếc đi đầu bốc cháy, Cộng quân dạt xuống chân đồi. Đại pháo tiếp tục nổ, đồi Gió tan hoang. Bộ binh địch tiến lên. Những chiếc còn lại vừa leo lên đỉnh đồi bắn phá cũng bị quân Dù bắn hạ. 

Quân Dù đã đẩy lui trên 10 đợt tấn công, bắn cháy 6 T54 của địch. Tuy nhiên, Đại đội trưởng 63 Cao Quốc Tuấn bị tử thương, hơn 100 chiến sĩ bi thương vong và Tiểu đoàn phó Phạm Kim Bằng bị thương. 12 giờ trưa, các Đại đội 63 và 64 bị tràn ngập. 

Quân lính sống sót bỏ chạy lên đồi 169, nơi Bộ chỉ huy Nhẹ Lữ đoàn đang đóng, không bị tấn công, chỉ bị pháo. Trung tá Lê Văn Ngọc được lệnh rút về An Lộc. Sáng 21 tháng 4, các đơn vị Trinh sát, Công binh và số quân từ đồi Gió rút lên đã về được An Lộc. Đoàn quân chỉ còn 150 người, hợp với Tiểu đoàn 5 và 8 Dù bảo vệ phía Nam thị xã.2

Nhà văn Phan Nhật Nam, nguyên là Đại úy Nhảy Dù viết về “Đồi Gió đổi tên”, như sau: 

“21giờ00 của ngày 19 được đánh dấu bởi quyết định của “Lê Lợi”: Tiểu Đoàn 6 Dù không còn nhiệm vụ giữ pháo nữa, chỉ còn nhiệm vụ giữ cao địa. Tiểu Đoàn Trưởng toàn quyền quyết định. Pháo còn nữa đâu mà giữ, chưa đầy 48 giờ, đã mất 6 khẩu pháo với ngàn quả đạn, bây giờ ở đây làm gì? Dọt ! Đĩnh dẫn Đại Đội 60 và Đại Đội 62 xuống đồi, hướng về phía Ấp Srok Ton Cui, nơi đang có 61 trấn thủ, để lại trên đồi 2 Đại Đội 63 và 64 cho Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng trấn giữ. 

Vinh “con” ào xuống như núi lở, Cộng quân bung ra khép lại. Vinh tiếp tục lấn… Chân Đồi Gió và Ấp Srok Ton Cui lại kẹt thêm cái suối Rộ. Vinh cựa quậy khó khăn dưới đám lau sậy, ruộng sũng nước. Nó bâu tôi như đĩa đói, dứt không nổi Anh Năm. Vinh hét với Đỉnh trong máy… Tối quá chỉ còn sờ ngực áo mà đánh lưỡi lê thôi… quên sờ nón sắt mà nhận Bạn. 

Nhưng Cộng quân cố chận bằng mấy lớp hàng rào người. 23giờ00 đêm, Vinh cũng sờ được cái Ấp… nơi đây Đại Đội 61 đang trông chờ từ lúc chập tối, 400m từ chân đồi đến người lính gác của Đại Đội 61, thành phần của Tiểu Đoàn 6 Dù đi mất 3 giờ, 3 giờ thêm một số thương binh vì lưỡi lê và mảnh lựu đạn của 400m cận chiến. 

Bây giờ là 00giờ00 của ngày 19 bước qua 20. Cộng quân không phải chỉ có một thành phần, một cánh quân, nhưng mà là một lũ người, một lớp sóng người chen vai thích cánh lố nhố đầy chân Đồi Gió, chân đồi phía Tây lẫn phía Đông. Cộng quân tràn ngập đường 245 như trẩy hội. Cộng quân bao quanh Ấp Srok Ton Cui như đám người đói vây quanh vị trí phát chẩn. Không phải là một cuộc điều quân, nhưng là một chợ người, lộn xộn ồn ào, la hét tìm đơn vị, chuyển lệnh – Ngày hôm nay sao máy bay “nguỵ” nhiều quá! – Sao mày không bắn! Tao chỉ có AK – AK thì AK, bắn cho “nguỵ” sợ… Ở trong này, Đĩnh thì thầm liên lạc với các Đại Đội 61, 62, và 60: các Toa dặn lính đừng bắn phải tiết kiệm đạn tối đa, chỉ nổ súng khi nào thấy chúng nó tấn công mình. Phải đợi trời sáng, khi xác định được rõ mục tiêu, chúng ta sẽ đồng loạt nổ súng, cắt đứt ngang đoàn quân của chúng, nhớ chuẩn bị các M.72 để hạ Tăng chúng nó!! 

- Các Đại Đội Trưởng đáp, nhận rõ 5/5. 

Dù vô trật tự đến tới đâu, Cộng quân cũng tập họp lại được hàng ngũ. 3 giờ sáng, tiếng kèn thúc quân vang lên lồng lộng… xong rồi tụi nó chuẩn bị dứt mình. 

Tiếng kèn thúc quân xoáy trong đêm, vang dọc theo đường 245… Bỏ mẹ, chúng nó bố quân cả 3 cây số đường dài… đồng thời từ phía Bắc đầu đường 245, có tiếng động cơ máy nổ, ánh sáng đèn pha quét ngang dọc trong bóng đêm của tăng T.54. 

3 giờ đúng, Đồi Gió bị tấn công trước, Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng, mặt đen xì, con người quá khổ, chậm rãi điềm tĩnh và hùng tráng như một hiệp sĩ thời cổ, đứng ra khỏi hầm, điều khiển hai Đại Đội 63, 64 phân công. 63 của Hoàng và 64 của Tuấn, 2 Đại Đội đã thử lửa với quân Cộng Sản Bắc Việt từ ngày 17, hai Đại Đội Trưởng “tới” quá mức dũng cảm như những thiên thần tung hoành trên đầu lũ quỷ say máu. Tất cả đều ở tuyến đầu chiến đấu, không còn Khinh Binh, Tổ Trưởng, Trung Đội Trưởng, Tiểu đoàn Phó…chỉ còn một hàng ngang theo giao thông hào, điểm phân biệt người chỉ huy là tay nói máy chuyền lệnh, tay ném lựu đạn, 2 Đại Đội chỉ trừ những người chết hay bị thương mê man, thương binh chỉ tạm băng bó sơ qua vết thương, đứng hoặc dựa lưng vào thành giao thông hào để chiến đấu. 

4 giờ trong bóng tối ngả màu tím của ngày sắp đến, 6 chiếc T.54 chia từ hai hướng Đông và Đông Bắc, bắt đầu lên đồi, lính tùng thiết Cộng Sản Bắc Việt chạy lố nhố theo sau để tính bề diệt gọn. Trăng thượng tuần gần sáng rọi ánh sáng trắng lạnh xuống sườn đồi vằng vặc, khối sắt đen lóng lánh tiến dần vào cùng động cơ vang ầm ì, ngọn đèn vẫn giữ nguyên độ sáng, ở vị thế “pha”, luồng ánh sáng dọi thẳng lên đồi hỗn xược thách thức… Hai chiếc T.54 đầu tiên bò lần lần từng bước lên ngọn đồi dựng đứng. 

Để tao thanh toán nó, Tuấn đứng thẳng khỏi giao thông hào, kéo chiếc ống M.72 cơ hữu (trên nguyên tắc chỉ khinh binh mới có M.72). Rút hết các chốt an toàn.Tách! Sợi dây an toàn cũng đã bị đứt, Tuấn đưa chiếc hoả tiễn lên vai nheo mắt… 100 thước, còn xa, 80 thước, hơi xa, 50 thước, đủ! Tuấn bị loá mắt bởi hai ngọn đèn dọi thẳng mặt…Ầm ! Quả hoả tiễn dập vào giữa hai điểm sáng, hơi chếch cao một chút, trúng ngay pháo tháp… Chiếc thứ hai tăng tốc độ hú lớn nhấc một cái lên tuyến phòng thủ, Hạ Sĩ Nhu, Tiểu Đội Trưởng can trường không kém Đại Đội Trưởng, nhảy vội lên pháo tháp, quả lựu đạn phát nổ sau khi Nhu vùa kịp nhảy xuống. Chiếc thứ ba thì lãnh 1 quả M.72, nằm yên bất động. 

Ba chiếc T.54 của phía Đông thì do chính Hoàng và một vài binh sĩ khác hạ. Cộng quân lại lui xuống chân đồi, để đại pháo rưới thêm một lớp, lớp thứ sáu kể từ lúc khởi đầu trận đánh. Ngày tới với ánh sáng cùng cơn mưa pháo thứ bảy, đỉnh đồi bây giờ tan hoang, điêu tàn và bốc khói, khói của đạn địch và khói của đạn ta cháy dở “Hột Lạc” dài 30m ngang 70m, hứng khoảng trên 2000 quả đạn trong một đêm với vị trí dã chiến, ngày chiếu ánh sáng rọi rõ cảnh vật tan nát… 

Tiểu Đoàn Phó Bằng bị “tung” một mắt. Tuấn hứng một quả 75 ly, quả đạn nổ ngay trên thân thể người sĩ quan trẻ mới 23 tuổi… số tuổi quá nhỏ đem so với chiến trường nặng độ. Đồi Gió kể từ đó mang tên mới: Đồi “Quốc Tuấn”, danh hiệu truyền tin của Tuấn, Cao Quốc Tuấn. 

Với một con mắt đẫm máu, Bằng nghiến răng, nhướng mắt còn lại giữ vững đồi cho đến lượt tấn công thứ 16. 

12 giờ trưa ngày 20, Bằng kiệt lực suôi tay bỏ rơi chiếc combine’, gọi Hoàng đến: “Thay tôi đem hai Đại Đội về 169 (Tây Nam Đồi Quốc Tuấn), với một cái yên ngựa chừng trên 2 Km đường rừng rậm. Nhớ đem hết thương binh, kẻ chết phải chôn lại…”5

Đêm 20 rạng 21 tháng 4, các Đại đội 60, 61, 62 với 70 thương binh ở ấp Srok Ton Cui, đang thiếu lương thực và đạn dược, đã được lệnh rút lui vào đêm tối, đi về hướng Đông Nam. Trước đó, qua trung gian của hệ thống tiếp vận tại núi Bà Rá, họ đã liên lạc được với Lữ đoàn và được yểm trợ ba phi vụ B52 đánh xuống mục tiêu ở ba hướng Bắc, Đông và Nam. Sau đó, lúc 01g42, họ rút, lấy sông Bé làm chuẩn và sẽ có trực thăng đến đón. 

Khi đến một trảng trống để đợi trực thăng đón về, quân Dù lại bị truy kích, mạnh ai nấy chạy. Những người sống sót ra được trực thăng đón về Lai Khê lúc 17g45. Tiểu đoàn chỉ còn 104 người trở về, trong đó có Trung tá Tiểu đoàn trưởng và 14 quân nhân pháo binh. Mãi đến tuần sau, một số binh sĩ thất lạc đã tìm về được trên các phòng tuyến bạn. Kết quả, địch 2.750 thương vong, 10 T54 bị bắn hạ; bạn 300 tử thương, 300 bị thương. Pháo đội 1 Dù (6 khẩu 105 ly) bị hủy bởi pháo binh địch.

4. Đêm 19 tháng 4, hai C130 lại thả dù tại Sân vận động, đã thả được 26 tấn hàng. Một C130 sau khi thả hàng, bị trúng đạn phòng không địch, một động cơ cháy, đã được phi công hạ cánh trên vùng 2 cây số cạnh căn cứ Lai Khê, phi cơ bị hư hại nặng, nhưng phi hành đoàn về Lai Khê an toàn.1

Đêm 24 tháng 4, một toán 6 chiếc và đêm 25 tháng 4, một đoàn 11 chiếc, cùng thả dù tiếp tế. Hai lần này, các phi cơ C130 được lệnh tắt hết đèn hiệu, bay từ Nam lên Bắc, giữa QL13 và Đồi Gió, để đến An Lộc.8 

Đêm 25 tháng 4, một trong 4 chiếc phi cơ đầu bị trúng đạn phòng không địch, rơi gần vùng 2 cây số Nam An Lộc, phát nổ, phi hành đoàn 8 người tử nạn.8 

Hai C130 bay thật thấp chỉ cách mặt đất 100 thước, 95% dù nhận được, nhưng chỉ có kết quả 4 đêm đầu.

Đêm 26 tháng 4, hai C130 và ba C123 bị bắn rơi trên trời An Lộc.3 

Đêm 27 tháng 4, hai C130 thả dù thành công, hầu hết tiếp liệu đều nhận được. Nhưng cả 2 phi cơ đều trúng đạn phòng không địch, thiệt hại nhẹ.8

Ngày 03 tháng 5, Cộng quân gia tăng pháo kích và phòng không. Không quân Mỹ dùng kỹ thuật “Halo”, dù thả cao tới mặt đất mới mở, 80% dù tiếp tế nhận được. Hai C130 bay cao 9.000 bộ thả 16 dù tiếp tế trúng bãi thả dù, chỉ 1 dù bay ra ngoài.8 

Ngày 08 tháng 5, mười một chiếc C130 thả 140 dù lưới, 139 dù thả trúng bãi đều nhận được.8


pastedGraphic_33.png

Thị xã An Lộc đổ nát

pastedGraphic_34.png

XM202 súng phóng hoả tiễn chống chiến xa

pastedGraphic_35.png


Sơ đồ BCD phản công chiếm lại đất

(ngày 19-4-1972)





Chương 17


GIẢI TỎA QUỐC LỘ 13 LẦN 2



1. Quân đoàn 3 quyết tâm khai thông QL13. Lực lượng tham dự có Sư đoàn 21 BB, Lữ đoàn 3 Dù và Thiết đoàn 9 Kỵ binh.

Ngày 11 tháng 4, Sư đoàn 21 từ Quân Khu IV tới Lai Khê. Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Sư đoàn làm Phụ tá Hành quân giải tỏa QL13, cạnh Trung tướng Minh để dễ chỉ huy. 

Sư đoàn có 3 Trung đoàn 31, 32, 33 và Thiết đoàn 9 Kỵ binh, không cần tiến ngay vào An Lộc vì Công trường 7 CSBV có thể tấn công các tỉnh gần thủ đô. Sư đoàn phải càn quét địch và khai thông QL13, từ Lai Khê tới suối Tàu Ô.

Từ 12 đến 22 tháng 4, Sư đoàn đã củng cố các điểm tựa Lai Khê và Chơn Thành. Trung đoàn 31 giữ mặt Tây căn cứ Lai Khê, đóng ở ấp Suối Tre, 6 cây số Tây Bắc Lai Khê. Trung đoàn 32 giữ Chơn Thành, đóng ở phi trường Chơn Thành. Trung đoàn 33 ở Lai Khê làm trừ bị. 

  1. Trận Bàu Bàng

Ấp Bàu Bàng trên QL13 tỉnh Bình Dương, 10 cây số Bắc Lai Khê, thuộc hành lang qua lại của CSBV, không còn dân.1

Ngày 24 tháng 4, Trung đoàn 101 Phân khu I được tăng cường Tiểu đoàn K6 Trung đoàn 165 Công trường 7 CSBV đóng chốt tại đây cắt đứt lưu thông đoạn Lai khê – Chơn Thành. 

Sư đoàn phải thanh toán chốt Bàu Bàng để lên phía Bắc. Từ ấp Suối Tre Trung đoàn 31 được trực thăng vận lên Bắc Chơn Thành 3 cây số. 

Trung đoàn 32 được tăng phái Chi đoàn 2/9 Thiết kỵ từ Chơn Thành đánh xuống và Trung đoàn 33 được tăng phái Chi đoàn 3/9 Thiết kỵ từ Lai Khê đánh lên. Phải mất 5 ngày Sư đoàn mới nhổ được chốt Bàu Bàng.

Thiếu tá Nguyễn Mai Xuân, Trung đoàn phó Trung đoàn 33 cho biết:

“Tại khu Bàu Bàng, Việt cộng đóng hai hệ thống chốt hai bên đường, mỗi hệ thống có 3 hầm hình chữ nhật, mỗi hầm cách xa nhau khoảng 20 thước, dài 3 thước, rộng 0.6 thước, sâu 1.50 thước, ở giữa có nắp che đậy cả thước đất và mỗi bên chỉ hở khoảng 0.8 thước để chúng nhô lên bắn rồi lại chui vào bên trong. Tuy ở đây mỗi hệ thống chốt gồm 3 chiếc hầm mà chúng gọi là kiềng, nhưng thực ra Việt cộng chỉ sử dụng một trong 3 chốt này, khi thì chốt bên phải, khi thì chốt bên trái phía trên, khi thì chốt bên trái phía dưới và thường do một tiểu đội đóng, với sự trang bị đặc biệt, ngoài vũ khí cá nhân còn một khẩu B40 hay B41, một khẩu cối 60 hay 61 và một thượng liên nữa. Ngoài chốt ra chúng tôi còn phải đương đầu với một trung đoàn địch với đủ các loại pháo dưới đất và pháo phòng không bố trí rải rác ở phía Tây quốc lộ, sẵn sàng pháo vào chúng tôi lúc chúng tôi ngừng chân chưa kịp đào công sự hay chơi vơi ở những khoảng trống để thanh toán chốt.

Cuối cùng, ngày 28-4-72, Sư đoàn chúng tôi quyết định phải đánh cả chốt lẫn đơn vị yểm trợ chốt cùng một lúc, bằng cách cho phi cơ oanh kích tối đa vào vùng bố trí quân của Trung đoàn 101/PKI cùng các đơn vị tăng cường cho chúng. Mặt khác, chúng tôi đặt pháo binh hai bên đường trực xạ vào các hầm rồi xua quân xung phong tiêu diệt từng tên một, từng hầm một, mới khai thông được khu vực Bàu Bàng, tái lập giao thông bình thường đoạn Lai Khê - Chơn Thành.”

  1. Lữ đoàn 3 Dù lên Tân Khai

Ngày 24 tháng 4, Lữ đoàn 3 Dù có 3 Tiểu đoàn 1, 2 và 3 do Trung tá Trương Vĩnh Phước chỉ huy, từ Kontum đến Lai Khê, tăng phái cho Sư đoàn 21 BB.2 

Lữ đoàn phải khai thông QL13 từ suối Tàu Ô đến xã Đông Phất. Công trường 7 CSBV đang hoạt động ở đây.

Ngày 25 tháng 4, Tiểu đoàn 2 do Trung tá Lê Văn Mạnh chỉ huy, được trực thăng vận xuống Đông Bắc suối Tàu Ô, vùng Tân Khai, bị pháo. Tiểu đoàn lập căn cứ hỏa lực Anh Dũng, đặt Pháo đội 105 ly. 

Ngày 26 tháng 4, Tiểu đoàn 1 do Thiếu tá Lê Hồng chỉ huy, đáp xuống Đông QL13, vùng Đức Vinh. Tiểu đoàn lục soát phía Tây Bắc, yên tĩnh.

Tiểu đoàn 2 lục soát phía Tây Bắc, Đại đội 21 và 24 bị pháo hơn 100 quả 82 ly. Ngày 27 tháng 4, Pháo đội 105 ly bị pháo, 3 khẩu bị hư. 

Ngày 02 tháng 5, Tiểu đoàn 3 do Thiếu tá Trần Văn Sơn chỉ huy, đáp xuống Đông QL13, giữa Tàu Ô và Tân Khai. Tiểu đoàn tiến về phía Tây QL13 để tiếp giao các đơn vị bạn ở phía Bắc và phía Nam. 

Tiểu đoàn 2 bị địch bắn hỏa tiễn 122 ly vào bãi đáp khi trực thăng đến tải thương.

Tiểu đoàn 1 bị địch tấn công các Đại đội 14 và 15, đóng tại ấp Đức Vinh, 2 cây số Bắc xã Đông Phất. Tiểu đoàn không được lệnh tiến về phía Bắc vì các tiểu đoàn ở phía Nam bị bám pháo, không khai thông được QL13. 

Ngày 05 tháng 5, khi tới cầu, 1 cây số Bắc suối Tàu Ô, Tiểu đoàn 3 đụng tiểu đoàn địch, cố thủ trong các hầm kiên cố. Tiểu đoàn phản công. Không quân Mỹ yểm trợ, Dù bò vào chiếm từng khu vực. Ngày 07 tháng 5, Dù chiếm được phía Đông đường xe lửa. Kết quả, địch 40 chết, 1 cối 82 ly bị tịch thu; Dù 14 chết, 68 bị thương.

Tiểu đoàn 3 giao tiếp Tiểu đoàn 2 ở phía Bắc, đang đánh vào khu vực suối Tàu Ô. 

Tiểu đoàn 2 lục soát phía Nam, 1 cây số Bắc suối Tàu Ô, bị địch pháo 50 quả 82 ly, Trung tá Tiểu đoàn trưởng bị thương. Ngày 06 tháng 5, Tiểu đoàn được tiếp tế, tải thương và tăng cường Đại đội 21 Trinh sát. 

Ngày 12 tháng 5, Tiểu đoàn 3 chuẩn bị vượt trảng trống, Nam suối Tàu Ô để sang phía Đông, đã bị đại đội địch phục kích. Kết quả, Dù 2 chết, 11 bị thương. Ngày 13 tháng 5, Đại đội 32 cận chiến trung đội địch trong khu 30 hầm hố. Kết quả, địch 5 chết, bỏ lại 1 AK, 1 M79 và 59 quả B40. Địch pháo vào nơi đóng quân; Dù 5 chết, 14 bị thương.

Ngày 14 tháng 5, Tiểu đoàn 3 vẫn chưa qua được QL13. Lúc 16 giờ, Tiểu đoàn lại vượt trảng trống, 500 thước Nam suối Tàu Ô, bị địch phục kích. Không quân yểm trợ. Tiểu đoàn vượt qua được trảng trống, nhưng Đại úy Đại đội trưởng Đại đội 31 tử thương. Ngày 15 tháng 5, sau khi được tiếp tế và tải thương, Tiểu đoàn tiến về hướng Đông. 15 giờ, Tiểu đoàn bị địch từ phía Tây pháo tới. Dù 4 chết, 24 bị thương. Tiểu đoàn rút về phía Nam, đóng quân đêm tại Đông Nam cầu suối Tàu Ô 3 cây số. Tới đây, địch không bám đánh nữa. 

Các Tiểu đoàn 1, 2 và 3 đến vùng tập trung ở Đông Nam QL13 an toàn. Tổng kết, Dù 60 chết, 340 bị thương, 24 mất tích; địch 254 chết, 1 bị bắt, 12 súng cộng đồng và 19 súng cá nhân bị tịch thu. 

Cuối tháng 5, Lữ đoàn 3 Dù tăng cường cho Quân khu I.

4. Trận Ngọc Lầu 

Trung đoàn 165 Công trường 7 CSBV tăng cường đặc công và trinh sát đã đặt chốt tại Ngọc Lầu. 

Khi tiến lên phía Bắc, Trung đoàn 31 đã bị chận trên một tuyến dài một cây số. Được yểm trợ đến ngày 05 tháng 5, tám phi tuần B52, 142 phi xuất oanh tạc, Trung đoàn chỉ chiếm được một phần các công sự của địch.

Ngày 06 tháng 5, Trung đoàn 32 đưa 2 tiểu đoàn được tăng cường Chi đoàn 1/5 chiến xa và Chi đoàn 2/9 Thiết quân vận phối hợp với Trung đoàn 31 được tăng cường Chi đoàn 1/9 Thiết quân vận tấn công vào điểm chận chính của địch ở phía Đông.

Ngày 08 tháng 5, sau 3 ngày giao tranh, quân giải toả mới tiến được 6 cây số nữa để chiếm làng Tàu Ô, giữa Chơn Thành và An Lộc. Quân CSBV đã làm nhiều hầm sâu đến 6 thước khiến phi cơ không phá nổi. Quân giải toả phải đánh cận chiến, chiếm từng hầm hố. Hai trung đoàn của Sư đoàn 21 BB được thả ở Bắc Tàu Ô đánh xuống, trong lúc một cánh quân khác từ Nam đánh lên.

Ngày 10 tháng 5, quân giải toả mới diệt được hệ thống chốt của địch và khai thông QL13 được 2 cây số. Trung đoàn 32 tấn công lên phía Bắc, địch kháng cự mạnh, không tiến được. Kết quả, bạn 55 chết, 176 bị thương; địch 106 chết, 6 súng cộng đồng, 30 súng cá nhân bị tịch thu.1


pastedGraphic_36.png


Sư đoàn 21 BB giải tỏa QL13


pastedGraphic_37.png


A 37 Dragonfly






Chương 18


BÊN LỀ CUỘC CHIẾN



1. Vây hãm

Từ ngày Lộc Ninh bị CSBV chiếm, nhiều đoàn người từ Lộc Ninh và các vùng lân cận chạy về An Lộc lánh nạn, khoảng 20 ngàn trong tháng 4. Họ là dân chúng Kinh, Thượng, già, trẻ, lớn, bé, viên chức xã ấp, gia đình binh sĩ chạy thoát thân. Cảnh náo loạn diễn ra hằng ngày. QL13 bị cắt, thị xã bị bao vây.3

Sự vây hãm bằng pháo kéo dài với những ngày tháng tử thủ, đã tạo nên một thị trấn đầy hầm hố và công sự chiến đấu. 

CSBV đã pháo vào Thị xã nhỏ bé này những trận mưa pháo kinh hoàng, chưa từng có trong lịch sử chiến tranh thế giới. Thị trấn An Lộc chỉ vài cây số vuông, trong hơn ba tháng, đã chịu gần 100.000 quả đạn đủ loại. Ít nhất 3 lần, Cộng quân đã pháo đạn hơi cay (tear gas) vào hầm chỉ huy của Sư đoàn 5 BB.3 An Lộc hoang tàn, không một vật gì không có dấu vết tàn phá của đạn pháo kích. 

An Lộc đã chịu nhiều đau thương và chết chóc. Chết có đủ kiểu, đủ cách trong mọi nơi mọi lúc. Cố vấn Tỉnh Bình Long, Đại tá Bob Corley đã báo cáo: “Xác chết đàn ông, đàn bà và trẻ con ở khắp nơi.”3                                       

Ngày 13 tháng 4, dân chúng tập trung ở nhà thờ Tỉnh để cầu nguyện đã bị xe tăng T54 CSBV bắn đại bác và súng máy giết hại trên 100 dân vô tội.3

Ngày 15 tháng 4, hơn 10.000 dân chạy lánh nạn vào nhà thờ, nhà chùa, nhà ga và bệnh viện. 

Tại nhà thờ Tỉnh, Cộng quân pháo sập tháp chuông, sập luôn mái ngói thính đường, chỉ còn trơ lại chiếc Thánh Giá có treo hình Chúa ở giữa, sân bên ngoài của nhà thờ cũng bị trúng pháo, 50 người chết và trên 100 dân bị thương.1

Tại nhà chùa, gần cổng Phú Lố, phía Tây thị xã, cũng bị trúng pháo, san bằng ngôi chánh điện Phật đường và giết hại gần 1.000 tín đồ.

Tại sân ga Hớn Quản, phía Ðông thị xã, đồng bào sắc tộc ngồi chật sân ga, bị pháo chết rất nhiều.

Tại bệnh viện An Lộc, đạn pháo của Cộng quân 

đã phá hủy bệnh viện, giết chết hầu hết 300 bệnh nhân, nhân viên y tá và bác sĩ nên số thương vong không có ai săn sóc, ngoại trừ các toán y tế của các đơn vị quân đội quanh thị xã đang cạn thuốc thang.3

Ngày 8 tháng 5, một số xác chết đã quá lâu chưa kịp chôn cất sau các vụ pháo, bệnh truyền nhiễm có thể phát sinh, Đại tá Trần Văn Nhựt cho xe ủi đất đào ba cái hố to ở góc sân trường học Bình Long gần đó để chôn tập thể khoảng 3.000 xác. Sau đó, bệnh viện được di tản về Bộ chỉ huy Tiểu khu.1

Ngày 11 tháng 5, CSBV pháo gần 8.000 trái trước khi tấn công vào An Lộc, số thương vong của quân và dân tăng rất nhanh. Những nghĩa trang tập thể chôn 300 tới 500 xác một chỗ. Quân phòng thủ không thể chôn hết xác chết vì đạn pháo rơi thường xuyên trên thị xã. Mùi thối tha của xác chết hiện diện thường trực trong thị xã và vùng phụ cận.3

Chiến binh tử thủ An Lộc và đồng bào còn kẹt lại đã chia sẻ nhau những gì có để ăn, để sống và chiến đấu. Quân dân trông chờ những cánh dù tiếp tế, mang theo thực phẩm, đạn dược và thuốc men. Trong những ngày giao tranh, tiếp tế được thả dù nhỏ giọt, không đủ cho nhu cầu. Theo Thiếu tướng James F. Hollingsworth, cố vấn Trung tướng Minh, từ 15 đến 30 tháng 4, quân trú phòng chỉ nhận được ít hơn 30% tiếp tế từ C130 của Không quân Mỹ và hơn 85% tiếp tế còn lại rơi vào tay Cộng quân.3

Hồi tháng 4, thực phẩm tươi hầu như không có. Các ruộng rau muống khô cằn vì nắng nóng. Đầu tháng 5, mùa mưa làm rau muống đâm chồi trên các vũng lầy. Có những người đã chết khi đi hái rau. Ở ấp Thánh Mẫu, người ta đã hái rau từ những ao đầy xác chết đã sình thối. 

Nước uống kiếm không ra, nói chi cái việc vệ sinh xa xỉ. Nước uống ở An Lộc là mấy cái giếng ở phố chợ và con suối ở phía Đông thị xã. Có những người đã chết khi đi lấy nước. Các nguồn nước uống dần dần bị nhiễm trùng vì nước mưa mang theo nước cốt các xác chết.

Bác Sĩ Nguyễn Văn Quí viết trong Nhật Ký An Lộc về “Địa ngục trần gian”: 

“Mọi nghi thức trong phòng mổ đều được giản dị hoá đến mức tối thiểu. Chúng tôi chỉ cần một đôi găng tay. Mọi người trong toán mổ đều mặc áo giáp, đầu đội nón sắt để thay thế áo choàng mổ. Có như vậy chúng tôi mới yên lòng làm việc vì bên ngoài Việt Cộng vẫn pháo tới đều đều. Máy phát điện đã bị pháo kích hư từ đêm hôm qua. Tôi phải mở rộng cửa sổ để có đủ ánh sáng làm việc. Chiếc bàn mổ phải luôn luôn xoay ngang, xoay dọc, lộn đầu lộn đuôi tùy thuộc nơi mổ là ngực, bụng, đầu hay chân tay để có đủ ánh sáng mặt trời rọi vào chỗ mổ. Phòng hấp ngưng hoạt động vì không còn điện nữa. Các dụng cụ giải phẫu đều được khử trùng bằng cách đốt bằng rượu cồn hay ngâm rửa trong nước sà bông gọi là surgical soap. 

Mặc áo giáp mổ vừa nặng vừa nóng. Trong phòng mổ kín mít, không máy lạnh, chỉ có một cái cửa sổ thông hơi nên đứng một lúc mà mồ hôi vã ra như tắm. Tôi bị mất nước nhiều quá thành ra mau mệt. Nước bây giờ quý hơn vàng, khó kiếm ra. Phòng mổ bây giờ không còn một giọt nước. Những khăn mổ đã dùng rồi, dính máu không có nước giặt được chị Huyền gom lại vứt thành đống sau phòng trực y tá. Ngay đến nước rửa vết thương còn không có lấy nước đâu ra giặt đồ. 

Ngay những ngày đầu của cuộc chiến, tôi đã tiên liệu tình trạng này. Nhưng tôi thực không ngờ trận đánh kéo dài mãi không dứt và hình như hiện giờ mới chỉ là khởi đầu. Tuần trước tôi đã ra lệnh cho Thượng Sĩ Lý chỉ huy các nhân viên phòng mổ thu gom tất cả các chai nước biển đã dùng rồi, đổ đầy nước vào, đem đi hấp để dự trữ hàng giẫy dài mấy trăm chai dọc theo tường phòng mổ. 

Mặc dù chúng tôi dùng rất dè sẻn, chỉ để rửa các vết thương, số nước đó cũng chỉ được một tuần sau là hết. Cũng may tôi xuống dưới kho lớn đã đổ nát tìm được 6 gallon phisohex và hai thùng hydrogen peroxide. Không có nước pha, tôi đành rửa các vết thương bằng phisohex nguyên chất. 

Phòng mổ bây giờ thật xơ xác hoang tàn, nền nhà dơ bẩn vì không có nước lau đã lâu. Dưới chân bàn mổ từng vũng máu đông đen xì hôi hám. Không khí ngột ngạt khó thở, không thể nào tiếp tục làm việc được nữa. Bệnh viện đã bị cô lập. Muốn liên lạc với các giới chức có thẩm quyền để xin trợ giúp chỉ còn có một cách đích thân đi bộ tới tận các bộ chỉ huy. Nhưng trong tình thế này tôi không tin là họ có thể giúp được cho bệnh viện một chút gì. Tôi tự nghĩ, có sao làm vậy, đến đâu hay đến đó, hết sức mình thì thôi. Khoảng 5 giờ chiều, Bác Sĩ Nam Hùng ở phòng cấp cứu xuống cho tôi hay có 5 người bị thương bụng cần mổ gấp, tôi nghe vậy mệt xỉu luôn. 

Dù ở trong thời bình với đầy đủ phương tiện, tôi có làm suốt đêm đến sáng, chưa chắc một mình tôi có thể giải quyết xong số thương binh đó. Huống chi, trong tình trạng hiện nay, với một số nhân viên cố định, đã làm việc suốt ngày không nghỉ. Tôi nghĩ không tài nào làm hết nổi. Không biết trận chiến còn kéo dài đến bao giờ. Tôi phải giữ sức khỏe cho nhân viên và cho tôi để có thể tiếp tục làm việc trong những ngày sắp tới. Nếu phung phí sức khỏe làm việc trong một ngày để rồi sau đó kiệt sức nằm bẹp một chỗ thì thật là người bất trí. 

Lại còn vấn đề cá nhân nữa. Không ai lo cơm nước cho chúng tôi. Chúng tôi phải tự túc lấy. Sau vài ca mổ trong giờ xả hơi tôi tạt qua phòng nhắp vội một hai nắp bi đông nước cho đỡ khát, ăn vội mấy thìa cơm sấy với thịt hộp cho qua cơn đói. Các nhân viên phòng mổ khác chắc cũng được bạn bè giúp đỡ nên họ cũng chưa đến nỗi kiệt sức lắm. 

Tuy nhiên trong tình trạng hiện tại, không điện nước, không đèn đuốc, thì dù có tinh thần cao cách mấy cũng không thể nào làm được. Lại thêm Việt Công vẫn tiếp tục pháo kích suốt ngày. Đạn pháo rơi bên trường trung học trước bệnh viện, bên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5, bên Ty Công Chánh sau bệnh viện rồi rơi vào ngay cả bệnh viện khiến cho chúng tôi đứng mổ không yên. Mọi người đều cố làm thật nhanh để còn đi tìm chỗ núp. 

Những vội vã trong lòng không biểu lộ ra nét mặt. Ai nấy đều có cái vẻ ngoài điềm tĩnh để làm việc. Có thể nói sợ quá hoá lỳ. Vì thực ra đâu còn cách nào khác. Tuy nhiên mỗi lần nghe tiếng rít của đạn bay qua đầu hay tiếng hú của hoả tiễn thì những dấu hiệu kinh sợ mới thấy hiện ra trong ánh mắt mệt mỏi của mọi người. Riêng tôi, mỗi lần như vậy thì cảm giác sợ hãi làm co thắt các bắp thịt đến buốt nhói ở tim. Khi nghe thấy tiếng đạn nổ rồi, thấy mình không hề hấn gì mới yên lòng làm việc tiếp. 

Càng ngày Việt Cộng càng pháo nhiều, tinh thần mọi người ở đây thật căng thẳng. Sống tính từng giờ, chết không biết lúc nào. Chúng tôi như những con chim đã bị tên, thấy cây cong là sợ: một tiếng xiết chân, một tiếng chép miệng, một tiếng thắng xe, tiếng xao động của mái tôn cũng làm cho chúng tôi giựt thót mình. Bao giờ tôi cũng có cảm tưởng là có một trái đạn treo trên đầu mình sẵn sàng nổ bất cứ lúc nào. 

Tôi nhận thấy không tài nào làm hết những vết thương bụng đó được. Tôi chọn xem người nào nhẹ nhất tôi làm trước. Những người nặng và những người mất máu nhiều không có hy vọng sống sót sau khi mổ, tôi chỉ cho truyền nước pha với trụ sinh rồi giao cho số mệnh. 

Trong số những người bị thương bụng không mổ, chỉ có hai người sống sót, một cô gái và một người lính cao lớn tên Ba. Tiếc thay anh Ba sống được hai tuần thì một đêm kia, phòng hậu giải phẫu bị trúng một trái 61 ly. Người đàn bà nằm ngay chỗ trái đạn nổ cùng với đứa con không việc gì, trái lại anh Ba bị một mảnh nơi cẳng chân trái. Một tuần sau anh chết vì bị phong đòn gánh. 

Trong ánh sáng lờ mờ của buổi chiều, trong không khí ngột ngạt oi bức tanh mùi máu của phòng mổ, tôi, Thiện, Xòm cố sức làm việc. Tôi cố khâu những vết thủng ruột non. Tôi thấy khó thở quá, mồ hôi chảy ròng ròng trong thân làm tôi thấy ngứa ngáy khó chịu. Thỉnh thoảng tôi lại phải nghiêng đầu dơ vai lên quẹt mồ hôi ở mặt từ trán chảy xuống. 

Bây giờ không còn như mấy ngày trước nữa mà mong có người đứng bên lau mồ hôi cho mình. Trong hoàn cảnh khó khăn tôi đã hình thành một triết lý sinh tồn là cứ hết sức chú ý vào công việc mình làm, không cần để ý tới thời gian và những phiền toái chung quanh. Bởi vậy cuộc mổ chiều hôm đó tuy cực nhọc khó khăn rốt cuộc rồi cũng xong. 

Tôi mệt lả người. Trong lúc Thiện, Xòm đẩy bệnh nhân ra phòng hậu giải phẫu, tôi bước ra ngoài cho dễ chịu một chút. Tôi không dám hít mạnh vì không khí bệnh viện hiện giờ chẳng trong lành, thơm tho gì. Cho tới nay gần 300 xác người nằm sấp lớp dưới nhà xe và sân sau của bệnh viện. Những xác chết đó có từ ngày đầu của cuộc chiến, đến nay gần mười ngày mà chưa được đem đi chôn. Buổi chiều mùa hạ nóng bức cùng với mùi tử khí của những xác người đã bắt đầu trương phình làm cho không khí đặc quánh, thật khó thở. 

Bệnh viện có một nhà xác chứa được hai xác. Khi tôi tới làm việc ở tỉnh này được chừng ba tháng, thì dự án nới rộng nhà xác của tỉnh đã được thông qua và bắt đầu. Một ông thượng sĩ an ninh của tỉnh thì thầm với tôi: 

- Bác sĩ đừng chê tôi dị đoan, nới rộng nhà xác là điều tối ky, vì chắc chắn sẽ có nhiều người chết lắm. Để rồi bác sĩ coi tôi nói có đúng không. Trước kia làm ở tỉnh Chương Thiện cũng vậy. Chỉ vài tháng sau khi nới rộng nhà xác là vô số người chết tới. 

Lúc đó tôi gật đầu cho ông ta vừa lòng, nhưng trong bụng bán tín bán nghi. Nay thì thấy ông thượng sĩ già này có lý. 

Thoạt đầu những người tử nạn đều được tẩm liệm vô hòm đàng hoàng, có cả quốc kỳ phủ quan tài cùng hương đèn đốt cháy suốt ngày đêm. Trung đội chung sự không đem đi chôn được vì pháo kích và khu nghĩa địa không được an ninh vì ở xa, ngoài vùng kiểm soát của quân mình, nên xác chết cứ để lại tại bệnh viện. 

Khuya, sau khi mổ xong, đi xuống phòng ngủ, tôi không dám nhìn ra phía nhà quàn với hàng quan tài có những ánh nến leo lét cháy. Cứ trông thấy là tôi lạnh người dựng tóc gáy rảo bước cho mau. 

Dần dần người chết quá nhiều, bất cứ nơi nào có xác chết là họ thu về đem thảy vào nhà xác bệnh viện. Mới đầu giới hạn ở nhà quàn, sau lan ra nhà xe, tới sân sau, rồi tới ngang hông văn phòng Ty Y Tế ngay trước trại ngoại khoa. Có xác quấn poncho, có phiếu chứng tử đính kèm, nhiều xác để trần mặc áo giáp, xác nằm xấp, nằm nghiêng, co chân co tay, miệng há hốc, mắt trợn trừng. Có xác nằm bình thản như người ngủ. Có xác trương phình, bụng căng cứng, bóng như bụng ễnh ương, chảy nước vàng, rữa nát vì để quá lâu, phơi nắng suốt ngày đã biến màu thành đen sạm như chì. Xác của người lớn, của trẻ con, của quan, của lính, của dân nằm lẫn lộn, xông lên mùi hôi thối suốt nửa tháng trời. Ruồi nhặng bu đầy trên mặt mũi, trên những vùng nước rỉ ra từ những thân thể sắp rữa nát.”1

2. Chạy loạn

Khi CSBV tấn công lần hai, vì dân chúng không có hầm trú ẩn, sống lộ thiên hay dưới các hiên nhà, nhất là đồng bào tập trung ở nhà thờ tỉnh, nhà chùa sân ga xe lửa cũ bị trúng pháo thương vong rất nhiều nên các vị lãnh đạo Tôn giáo có quyết định táo bạo, cầm cờ trắng đi đầu hướng dẫn đồng bào vượt khỏi thị xã. 

Ngày 15 tháng 4, khoảng 200 đồng bào vượt qua kẽm gai đến cuối phía Nam thị xã, bị Cộng quân pháo vào đoàn người, những người còn lại đã phải trở về thị xã.3

Trưa 16 tháng 4, trên 10.000 đồng bào đi thành hàng tản cư về phía Nam theo QL13. Khi vừa ra khỏi cổng Xa Cam đã bị Cộng quân điều chỉnh pháo binh bắn ngay đoàn người, khiến 500 người chết và bị thương. Những người bị thương sau đó cũng chết dần mòn vì không ai cứu cấp, cho ăn và săn sóc.1 Xác chết nằm la liệt trên nhiều đoạn đường tại An Lộc và các làng dọc QL13.3 Số người còn lại đến Ấp Tân Khai bị Cộng quân chận lại để thanh lọc, đàn bà, trẻ con, các cụ già cho tiếp tục đi, thanh niên đàn ông bị giữ lại. Ngày hôm sau, Cộng quân đuổi tất cả dân chúng trở về Tỉnh, khiến lực lượng phòng thủ tăng thêm gánh nặng về lương thực và cứu thương.

Một người dân Bình Long chạy loạn cho biết:

“Đêm hôm đó, vào khoảng mười mấy tây tháng tư, đồng bào An Lộc ùn ùn kéo nhau lên đường, lúc đó vào khoảng 2 giờ. Theo hướng QL13, chúng tôi hướng về Chơn Thành. Đồng bào vừa ra đến đầu tỉnh Bình Long thì bị lính chặn lại vì cấp lãnh đạo sợ nguy hiểm nhưng đồng bào cứ nằng nặc một lòng nhất quyết đòi đi. Dẫn đầu đoàn người này là các vị sư và cha vừa đi vừa mang cờ trắng.

Đoàn tôi là đoàn đầu tiên, số người đi lánh nạn tôi không thể đếm được là bao nhiêu, nhưng tôi thấy đoàn người đi trên QL13 dài có hơn một cây số và đông như kiến gồm đủ hạng người già, trẻ, lớn, bé, trai, gái, họ gồng gánh chạy nạn trông thấy mà thảm.

Chúng tôi đi bộ từ 2 giờ đêm đến 6 giờ sáng thì đến được Tân Khai, cách xa An Lộc khoảng 15 cây số. Đến đây thì bị mấy Việt cộng chận lại và lùa vào ấp Tân Khai. Tại đây chúng bắt đồng bào tập trung lại và lập thành 4 nhóm: đàn bà con nít, con gái, đàn ông con trai và những ông già.

Bị chận lại ba ngày ba đêm, cộng sản chẳng cho cái gì, lại phải dầm sương dãi nắng để ngủ, tối đến trẻ con khóc nhiều lắm. Đồng bào chẳng mang theo được đồ ăn nên phải đào củ mì các luống rẫy của người Thượng để ăn cho qua ngày, nhưng chịu không nổi vì xót ruột quá. Còn bọn Cộng sản phần nhiều là thanh niên vào khoảng hai mươi mấy tuổi và nói tiếng Bắc.

Mấy ngày ở lại, bọn Cộng sản lấy lý lịch mọi người, chúng cho du kích và nằm vùng đi điều tra những người nào tình nghi.

Đến 12 giờ đêm ngày thứ ba, chúng thả và đoàn người lại tiếp tục lên đường. Có một số thanh niên và đàn ông bị giữ lại, còn tất cả đi bộ về Chơn Thành và tới đây chúng tôi được quân đội chở về Bình Dương…

Trong những đoàn người di tản lánh nạn này, có cả người Thượng, có cả người ở Lộc Ninh và Quản Lợi chạy về An Lộc, rồi lại còn phải tiếp tục chạy nữa. Bom đạn đã làm cho nhiều gia đình phải tan nát, không còn trọn vẹn bố mẹ, vợ chồng, anh em, hay con cháu. Thiếu thốn, bệnh hoạn, đau thương và tang tóc là những điều mà người chạy loạn phải chấp nhận hết.”1


pastedGraphic_38.png


Thánh lễ tại nhà thờ An Lộc



pastedGraphic_39.png


Theo những lỗ đạn trên mái ngói, ánh sáng dội vào tường, nền nhà, dãy ghế bên trong nhà thờ An Lộc.


pastedGraphic_40.png

Xác chết không được chôn, rữa nát theo thời gian

pastedGraphic_41.png

Bệnh viện tiêu điều

pastedGraphic_42.png

Vài cụ già và thương bệnh binh 

còn tạm ẩn tại bệnh viện


pastedGraphic_43.png



pastedGraphic_44.png


Chạy loạn







Chương 19


CSBV TẤN CÔNG AN LỘC LẦN 4

11-5-1972



CSBV đã dồn hết lực lượng pháo binh, thiết giáp phối hợp với hai Công trường 5 và Công trường 9 tấn công nhiều địa điểm, quyết chiếm An Lộc bằng mọi giá. Trong khi đó, Công trường 7 CSBV cắt đứt QL13 để chặn quân tăng viện.

Ngày 10 tháng 5, tại Thủ Ðô Sài Gòn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố “Tổ Quốc lâm nguy”. Tin tình báo cho biết Chính Trị Bộ CSBV hạ lệnh dứt điểm An Lộc, bắt sống Tướng Lê Văn Hưng lập công mừng ngày sinh nhật Hồ Chí Minh 19 tháng 05 năm 1972.4

Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đã đáp trực thăng đến bản doanh Tiền phương của Trung tướng Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3 tại Lai Khê để duyệt xét tình hình. Các tướng lãnh đều nghĩ đến một cuộc tấn công lớn sắp tới của địch vào An Lộc và đã thảo luận các biện pháp cần thiết để đối phó. Thiếu tướng James F. Hollingsworth, cố vấn Trung tướng Minh, đã đồng ý là sẽ gia tăng gấp bội các phi vụ yểm trợ chiến thuật và chiến lược cho An Lộc.1 Buổi chiều, Tướng Hollingsworth xin Tướng Abrams, Chỉ huy trưởng MACV yểm trợ một phi vụ B52 cho mỗi 55 phút trong 24 giờ tới.3

10 giờ đêm, trạm gác cổng vòng ngoài của Bộ chỉ huy CSQG tỉnh Bình Long, gần nơi Cảnh Sát Dã Chiến đóng quân, bị pháo sập. Năm nhân viên an ninh tại trạm đã bị vùi lấp dưới đống đổ nát, được CSDC đưa ra trong lúc địch pháo dồn dập.

Ngày 11 tháng 5, lúc 00g35 sáng, CSBV pháo kích thực kinh khủng, khoảng 8.000 quả đạn đủ loại vào An Lộc, cứ 5 giây một quả.3 Thiếu tá Kenneth Ingram, Cố vấn tại Bộ chỉ huy Sư đoàn 5 BB nói: “Pháo kích rất nặng, ra ngoài hầm chắc chắn sẽ chết.”3 Quân phòng thủ VNCH sẵn sàng chờ địch.1

04 giờ, pháo binh địch ngừng bắn.3

06 giờ, từ phía Tây và Đông Bắc, Cộng quân với đoàn xe tăng 40 chiếc ào ạt tấn công vào thị xã. Không quân VNCH đã tách rời bộ binh và xe tăng địch khi tiến vào thị xã.3 Tuy nhiên, Cộng quân chọc thủng được hai nơi trên tuyến phòng thủ.1

Phi cơ AC130 dùng đạn 40 và 105 ly bắn cháy nhiều xe tăng CSBV cho quân VNCH thời gian củng cố phòng tuyến giữ vững vị trí. Hai mũi tấn công của địch là hai mũi mạnh nhất tiến vào An Lộc.3 

Các Phi công Phi đoàn 21 Chiến thuật và Phi đội Đặc nhiệm 8 tại Biên Hòa đã anh dũng không tập 30 phi vụ vào nơi hỏa lực phòng không chưa từng có ở Việt Nam.3 Với các chiến xa đột nhập, địch đã chia thị xã thành nhiều mặt trận. Mỗi mặt trận đều ác liệt.

Tại mặt Tây, Trung đoàn 272 Công trường 9 CSBV tấn công Tiểu đoàn 3/7. Hai chiếc PT76 vừa vượt qua cổng Phú Lố bị hạ. Những chiếc khác vẫn tiến, bộ binh địch theo sau. Lúc 09g15, địch tràn vào khu nhà giam, chiếm Ty Công chánh, cách Bộ chỉ huy Sư đoàn 5 BB 150 thước. Trung đoàn 7 BB không liên lạc được với Tiểu đoàn trưởng 3/7, chỉ liên lạc được với 2 đại đội của tiểu đoàn này. Tiểu đoàn 3/7 không chịu được sức tấn công mạnh của địch, phải lui vào bên trong. Phòng tuyến của Trung Ðoàn 7 bị thủng, co cụm lại thành từng ổ kháng cự quanh Tiểu khu. 

Tại mặt Nam, Trung đoàn 271 Công trường 9 CSBV chia làm 2 mũi: Mũi một chọc thủng phòng tuyến Địa phương quân của Tiểu khu ở phía Tây Nam, tiến vào đường Huỳnh Thúc Kháng. Chiếc PT76 vừa vào phòng tuyến của Đại đội Chiến tranh Chính trị bị bắn hạ. Mũi hai tiến về phía Đông Nam vào khu vực của Lữ đoàn Dù tại cổng Xa Cam, do Tiểu đoàn 1/48 Trung đoàn 52 BB tăng phái ngày 29 tháng 4 trấn đóng. Địch đã bị tiêu diệt ngay khi tiến đánh các đơn vị Dù ở phía Đông Nam bên ngoài thị xã. Sáu chiến xa địch bị quân Dù và Không quân bắn hạ.

Tại mặt Đông Bắc, Trung đoàn E6 Công trường 5 CSBV chọc thủng phòng tuyến của Tiểu đoàn 52 BĐQ, buộc Tiểu đoàn phải lui về phía Nam. Một PT76 vừa vào phòng tuyến của Tiểu đoàn ở cuối đường Nguyễn Du bị hạ, Cộng quân vẫn tiến, chiếm Ty Chiêu Hồi, cách Bộ chỉ huy Sư đoàn 5 BB 200 thước.

Tại mặt Tây Bắc, Trung đoàn 274 Công trường 5 CSBV tấn công Liên đoàn 81 BCD và Trung đoàn 8 BB. Địch tấn công mạnh, Liên đoàn phải rút khỏi trại Cảnh sát Dã chiến. Sau đó, Biệt cách Dù đã diệt 4 chiến xa và đã phản công chiếm lại phần đất đã mất. Chiếc T54 chạy đến ngã tư Nguyễn Huệ - Hùng Vương bị quân sĩ Trung đoàn 8 bắn cháy. Chiếc PT76 chạy đến đường Lê Lợi gần tượng Kitô Vua, bị vướng kẽm gai vòng và bị bắn hạ. Kết quả, địch đã chiếm trại Cảnh sát Dã chiến và chợ Mới. 

Nhờ chuẩn bị trước, các phi tuần khu trục, trực thăng và oanh tạc cơ chiến lược thay nhau yểm trợ từ 04 giờ sáng ở quanh và trong thị xã. Một máy bay A37, hai quan sát cơ O2 và hai trực thăng chiến đấu Cobra AH1G bị bắn rơi. Một AC130 Spectre bị trúng hoả tiễn SA7, nhưng về căn cứ an toàn.3

Lúc này tình hình rất khẩn trương. Tướng Hưng lệnh cho Đại tá Lưỡng, ở Đông Nam thị xã, điều động một thành phần của Lữ Ðoàn Dù đến tiếp ứng. 

Lúc 08g30, Đại đội 82 thuộc Tiểu đoàn 8 Dù đến phối hợp với Cảnh sát chiếm lại phòng tuyến bị chiến xa địch xâm nhập ở phía Tây Nam, khu vực trách nhiệm của Tiểu khu. 

Một PT76 và hai T54 đã lọt vào phòng tuyến của Bộ Chỉ huy Cảnh Sát Quốc Gia, vừa di chuyển vừa bắn phá. Chiếc PT76 vào đến bãi tác xạ bị bắn hạ. Hai T54 vào theo bị bắn rát quá, phải quay đầu ra ngoài hàng rào phòng thủ, bị lực lượng Dù đến tiếp ứng bắn hạ. Sau đó, Đại đội 82 Dù ở lại tăng cường tuyến Tây Nam.

Đến 10 giờ Tiểu đoàn 5 Dù chia quân làm hai cánh - Cánh một lập tuyến ngăn chặn phía Ty Công chánh - Cánh hai, trước trường tiểu học Thượng, phối hợp với Biệt động quân ngăn địch ở phía Đông Bắc. 

Quyết định dùng lực lượng Dù để phản công trong thị xã đã chận đứng được đà tấn công của địch. 

Buổi chiều, Đại đội 3 Trinh sát Dù được tăng cường bảo vệ Bộ chỉ huy Sư đoàn 5 BB. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Dù đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu khu.

Cộng quân bám vào khu vực vừa chiếm, đào hầm hố để kháng cự lâu dài. Chiến xa địch tiến vào các khu phố xụp đổ ẩn nấp. Quân bạn củng cố phòng tuyến, không để địch lan rộng ra. 

Ngày 11 tháng 5 có 297 phi xuất khu trục và 30 phi vụ B52 (gồm 5 phi vụ mượn của Quân khu II) yểm trợ cho An Lộc nên các đợt tấn công dữ dội nhất của địch đều bị dập tắt.3 

Thiếu tá Nguyễn Văn Lân, Trưởng ban 3 Liên đoàn 81 BCD, viết về trận đánh Trung đoàn 274 Công trường 5 CSBV ở Bắc thị xã như sau:

“Ngày 11-5-72, chúng tôi nhớ đời.

Tụi nó dập trên 8.000 quả từ lúc 3g. Đây là ngày lịch sử thứ 2 An Lộc bị BB kết hợp với chiến xa tấn công sau trận mưa pháo. Chúng nó pháo quá khiến chúng tôi chột dạ, ai nấy đều khẩn trương. Yearta lúc đầu còn đếm 1, 2, 3, 4, lên hàng chục, chịu đến hàng trăm rồi chửi thề bỏ ngang vì theo không xuể. Anh cả quá lo ĐĐ2 bị cắt đứt phía trên trong trại CSDC và bị tiêu diệt, lại thêm lo các cánh bạn bỏ chạy. Anh kéo tôi riêng ra nhắc nhở các chi tiết của kế hoạch Trịnh Văn Huỳnh khi cần. Nhưng không, không ai chạy cả. 8.000 quả pháo không đạt được tác dụng nhiều, nhất là về phía Bắc của chúng tôi, đạn rơi ngắn lên đầu chính bọn chúng, thằng tiền sát viên địch chắc phải tự vẫn mất. Hôm qua chắc thằng này điều chỉnh mấy trái khói ngay trên tuyến chúng tôi chứ không ai vào 5g sáng, trung tá H, quyết định cho ĐĐ2 khẩn cấp thoát ra trại CSDC rút về thủ quanh bộ chỉ huy để bình địa khu này bằng bom. Đó là một quyết định sáng suốt riêng tôi phải nhớ vì có lúc tôi không hoàn toàn đồng ý với ông. Anh cả bao giờ cũng giữ được phong thái trầm tĩnh như vậy, ngón tay lúc nào cũng nhởn nha nhởn nhơ gõ gõ trên đùi khi mãi suy nghĩ để rồi có những quyết định chắc nịch. Tôi theo ông ấy mấy năm, học được nhiều nhất về cái phong thái này và bớt được những suy tính nóng nảy. ĐĐ2 vừa về đến nơi thì tờ mờ sáng, bốn mặt An Lộc T54 lù lù tiến vào. Có điều lạ khi không ở đâu sau những bức tường, chúng ủi sập và chình ình trước mặt mình. Có lẽ số chiến xa này bò vào từ đợt trước và dần hồi về sau, ủi sập nhà chui núp vào trong chờ khi hành động. Có nghĩa là chúng nằm ngay bên cạnh chúng tôi nhiều ngày trước. Điều lạ hơn nữa là lần này cũng không khá gì hơn lần đầu, BB địch theo yểm trợ chiến xa thưa thớt hay lùi về sau quá nhiều. Chiến xa vừa húc tường chui ra tưởng sẵn bộ binh cứ tiến bừa, bắn bừa như con cua mù. Nòng súng 100 ly khạc dữ dội nhưng đạn chỉ xé trời mà lên. Bởi thế mà chúng tôi chỉ mất nhiều lắm là 3 giây hơi thản thốt – nói thật - rồi “bịch bịch” hai tiếng nổ tức đầu tiên phát ra. ĐĐ3 hạ chiếc T54 trước nhất cách tuyến có 10 thước. Bốn thằng cộng sản chui ra từ lỗ thoát hiểm dưới bụng xe cũng đành chịu chết cháy. ĐĐ4 và ĐĐ1 cũng không vừa, hạ liền ngay hai chiếc khác phía trước. Chiếc phía ĐĐ1 hoảng quá đâm sầm xuống mắc kẹt vào một hố bom, mấy tên khốn từ trong xe nhảy ra chạy vắt giò lên cổ ngược về sau. Anh em cười tha mạng. Hạ tăng sao mà khoái quá, Yearta lãnh phần chiếc thứ tư với một phi tuần bom nặng. Các mặt khác cũng hạ chiến xa tới tấp. Phía Dù nghe đâu làm bộn hơn, có đến 6 chiếc kể cả một BTR50 lội nước. Chúng tôi tiếc mặt Bắc chỉ còn có 4. Bây giờ tới màn xử bộ binh địch. Ôi thôi, chúng như đàn chuột, vì không theo kịp chiến xa. Nội cây 81 của chúng tôi cũng hạ vô kể, vì chúng tập trung làm thành mục tiêu tốt quá. Không lẽ chính quy Bắc Việt đánh đấm tồi đến thế! Hai anh Tây theo chúng tôi coi thường đến đỗi vác súng XM16 leo lên nóc nhà ngồi bắn tỉa chơi. Vừa bắn vừa la hô vừa điều chỉnh phi pháo. Tôi viết những dòng này và nhớ hai người bạn đó, Hugging và Yearta, khi vui thích trông các anh trẻ con và dễ thương thật.

Trận đánh toàn diện bốn mặt An Lộc kéo dài đến trưa. Ta thắng thế rõ rệt. Địch thì thảm bại ngay từ lúc đầu, chỉ có pháo là nổ dữ.”

Ngày 12 tháng 5, mặc dù được Không lực yểm trợ liên tục, quân trú phòng đã phải cố gắng lắm, suốt ngày đánh cận chiến, mới đẩy lui được bộ binh và chiến xa địch tản mác tại trung tâm thị xã, nối liền khu Đông Bắc và Tây Nam lại với nhau. Phần đất của Liên đoàn 3 BĐQ và Tiểu đoàn 3/7 BB vẫn bị chúng chiếm giữ. 

Kết quả, ngày 11 và 12 tháng 5, bạn 51 chết, 137 bị thương, 136 mất tích, mất 142 vũ khí các loại; địch 218 chết, 2 bị bắt, 13 súng cộng đồng và 23 súng cá nhân bị tịch thu, 40 chiến xa bị phá hủy.1

Ngày 13 tháng 5, kỹ thuật thả dù từ độ cao rơi nhanh cũng được áp dụng cho loại dù lưới. Loại dù này không bị hạn chế bởi vị trí rơi lớn nhỏ, 90% dù tiếp tế nhận được.8 


pastedGraphic_45.png


T54


pastedGraphic_35.png


Sơ đồ phối trí lực lượng bạn

(trước ngày 11-5-1972)



pastedGraphic_46.png


Sơ đồ CSBV tấn công lần 4

(ngày 11-5-1972)



pastedGraphic_47.png


Bộ Chỉ Huy CSQG Tỉnh Bình Long

(góc Thị xã An Lộc, dấu + xác định vị trí)


pastedGraphic_48.png


Thị xã An Lộc đổ nát





Chương 20


GIẢI TỎA QUỐC LỘ 13 LẦN 3



Quân đoàn 3 quyết tâm khai thông QL13 và giải tỏa thị xã An Lộc. Lực lượng tham dự có Sư đoàn 21 BB, Trung đoàn 15 BB và Thiết đoàn 9 Kỵ binh.

Trao cho Trung đoàn 32 thanh toán chốt chặn Tàu Ô, Sư đoàn 21 điều động Trung đoàn 33, Trung đoàn 15 và Thiết đoàn 9 Kỵ binh bọc qua chốt Tàu Ô, lên chiếm Tân Khai, lập căn cứ hỏa lực, yểm trợ pháo cho các đơn vị bạn.

1. Trận suối Tàu Ô

Ngày 11 tháng 5, Trung đoàn 32 được tăng cường Chi đoàn 1/2 Thiết kỵ, Chi đoàn 1/5 Chiến xa và yểm trợ pháo binh, phi cơ khởi sự giải tỏa Tàu Ô.                                             

Suối Tàu Ô nằm trên hành lang xâm nhập của CSBV từ Miên vào chiến khu D. Trung đoàn 209 Công trường 7 CSBV tăng cường trinh sát, Đại đội C41 chống chiến xa, dùng 2 ngọn đồi để lập một hệ thống chốt, dài 3 cây số, với địa đạo và công sự kiên cố, kiểm soát toàn khu vực. 

Địch phản công mạnh, Trung đoàn phải bám sát từng đơn vị địch để tiêu diệt tuyến chốt chặn. 

Từ 11 tháng 5 đến 21 tháng 6, Trung đoàn chỉ thanh toán được 2 cây số, không tiến được. Kết quả, bạn 95 chết, 455 bị thương, 4 mất tích, 4 M113 bị hủy; địch 503 chết, mất 37 súng cộng đồng và 71 súng cá nhân.

2. Trận Tân Khai 

Ấp Tân Khai, 11 cây số Nam An Lộc, được chọn làm căn cứ hỏa lực, yểm trợ cho An Lộc và các cuộc hành quân sắp tới.

Ngày 11 tháng 5, Trung đoàn 15 với Chi đoàn 1/2 Chiến xa và Pháo đội 105 ly thuộc Sư đoàn 9 BB do Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy, từ Quân đoàn 4 đến Lai Khê, tăng phái cho Sư đoàn 21 BB.1 

Chiều 14 tháng 5, Trung đoàn 15 được lệnh thành lập Chiến đoàn 15 giải tỏa An Lộc bằng đường bộ. Chiến đoàn gồm Tiểu đoàn 1/15, 2/15, 3/15, Đại đội 15 Trinh sát, Thiết đoàn 9 Kỵ binh và Pháo đội 93C 105 ly.

Ngày 15 tháng 5, Thiết đoàn 9 Kỵ binh được tùng thiết Tiểu đoàn 1/15 kéo theo pháo đội 93C 105 ly từ Chơn Thành tới Ngọc Lầu, bọc sườn Đông QL13 tới Tân Khai.

Ngày 16 tháng 5, Tiểu đoàn 2/15 được trực thăng vận xuống Bàu Mét, một cây số Đông cầu Tân Khai để tiến vào Tân Khai. Bộ chỉ huy Chiến đoàn và Trung đội Pháo 155 ly được trực thăng vận xuống lập căn cứ hỏa lực Long Phi.

Ngày 17 tháng 5, Đại đội 15 Trinh sát được trực thăng vận xuống Tây Bắc Tân Khai; Tiểu đoàn 3/15 đáp xuống bầu Đông Lê, một cây số Tây Nam Tân Khai. Cùng lúc, một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 đáp xuống Long Phi thay cho Tiểu đoàn 2/15, lên tiếp giao với Tiểu đoàn 3/15.

Ngày 18 tháng 5, Thiết đoàn 9 và các đơn vị tùng thiết tới căn cứ Long Phi an toàn. Trung đoàn phó Trung đoàn 15 ở lại giữ căn cứ với một tiểu đoàn của Sư đoàn 21, pháo đội 105 ly và trung đội 155 ly.

Bộ chỉ huy Chiến đoàn 15, Thiết đoàn 9 và Tiểu đoàn 1/15 tiến theo các Tiểu đoàn 2/15 và 3/15 lên phía Bắc.

Cùng ngày, Trung đoàn 33 (-) do Trung tá Nguyễn Viết Cần chỉ  huy, từ căn cứ hỏa lực Cà Mau, một cây số Bắc Ngọc Lầu, tiến theo đến Tân Khai.

Trung đoàn 15 có thiết giáp tiến bên phía Tây QL13. Trung đoàn 33 tiến bên phía Đông.

Địch pháo vào căn cứ Long Phi. Trung đoàn 15 phải để lại Tiểu đoàn 1/15 hợp với tiểu đoàn bộ binh có sẵn mở rộng vòng đai an ninh cho căn cứ.

3. Trận Đức Vinh 

Ngày 19 tháng 5, khi tới Đức Vinh, vùng hoạt động của Trung đoàn 141 Công trường 7 CSBV, Trung đoàn 15 đụng địch, không tiến được. Địch bám pháo, làm bạn hao mòn và lệ thuộc hầm hố để tránh đạn. Nhờ có thiết giáp, Trung đoàn phá phòng tuyến, địch bố trí dài theo QL13 ngăn chận. Trung đoàn đổi hướng tiến và vượt suối Xa Cát.

Đêm 20 tháng 5, Tiểu đoàn 3/15 vượt suối tiến về An Lộc, theo sau là Bộ chỉ huy Trung đoàn và Tiểu đoàn 2/15. 

Sáng 21 tháng 5, Trung đoàn 15 di chuyển, Tiểu đoàn trước đào hố phòng thủ. Tiểu đoàn sau vượt qua đến khi chạm dừng lại. Tiểu đoàn sau tiếp tục vượt lên. 

Ngày 22 tháng 5, khi tới Nam xã Thanh Bình gần cây số, Trung đoàn bị địch chặn lại, bị pháo dữ và không tải thương được. Chiến đoàn phải dùng thiết quân vận hộ tống các đoàn tiếp liệu và tải thương về Tân Khai.

Ngày 23 tháng 5, Trung đoàn 15 (-) đóng phía Bắc vùng Đức Vinh, bị địch áp lực mạnh. Trung đoàn 33 (-) đóng vùng Đông Phất, bị pháo. Thiết đoàn 9 yểm trợ mặt sau cho Trung đoàn 15 bám theo QL13. Thiết đoàn 9 tải thương từ Đức Vinh về Tân Khai và tiếp tế ngược lại an toàn.

Ban đêm, địch tấn công mạnh với pháo và chiến xa. 06 giờ sáng, một đại đội chiến xa địch tấn công Tiểu đoàn 3/15 và Đại đội 15 Trinh sát. Quân bạn phản công. Phi cơ B52 oanh tạc xã Thanh Bình. Địch bỏ đi. Kết quả, bạn 12 chết, 25 bị thương; địch 24 chết, bỏ lại 18 súng cá nhân, 2 chiến xa bị hạ.

Ngày 24 tháng 5, Thiết đoàn 9 chạm Trung đoàn 141 Công trường 5 CSBV. Kết quả, bạn 8 chết, 77 bị thương, 8 mất tích, 22 thiết quân vận M113 bị hư; địch 20 chết, 14 súng cá nhân bị tịch thu. Sau đó, Thiết đoàn 9 về căn cứ Long Phi phòng thủ.

4. Phá vỡ vòng vây An Lộc

Ngày 25 tháng 5, Trung đoàn 15 (-) từ phía Nam xã Thanh Bình một cây số, tiến lên phía Bắc, lại đụng nặng với địch và cố thủ tại chỗ. 

Ngày 31 tháng 5, Trung đoàn 33 (-) từ ấp Đông phất tiến về phía Bắc, địch kháng cự mạnh, không tiến được.

Ngày 04 tháng 6, Tiểu đoàn 6 Dù sau khi rút khỏi Ðồi Gió, được tái tổ chức, đặt dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn 21 BB và được trực thăng vận từ Lai Khê lên Bắc căn cứ Long Phi 2 cây số, để tấn công lên phía Bắc. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn đã mang theo 300 quân nhân bổ sung cho Trung đoàn 15.

Ngày 06 tháng 6, Tiểu đoàn 6 Dù đánh thủng phòng tuyến địch ở Đức Vinh. Kết quả, Dù 1 chết, 64 bị thương; địch 31 chết, mất 2 súng cộng đồng và 12 súng cá nhân. Tiểu đoàn giao các quân nhân bổ sung cho Trung đoàn 15 tại QL13, ba cây số Nam An Lộc. 

Ngày 07 tháng 6, Trung đoàn 33 đã dọn được bãi đáp, tải thương được 210 người; Trung đoàn 15 tải thương được 149 người. Sau đó, Trung đoàn 15 và Tiểu đoàn 6 Dù cùng tấn công về phía Bắc.

Ngày 08 tháng 6, khi tới Đông xã Thanh Bình, Tiểu đoàn 6 Dù lại chạm địch. Tiểu đoàn phản công. Kết quả, Dù 11 chết, 31 bị thương; địch 73 chết, bỏ lại 2 súng cộng đồng và 33 súng cá nhân. 

Sau trận này, 2 đơn vị đã phá vỡ chốt Xa Cam để tiến vào An Lộc. 17g45, cách Đồn điền Xa Cam 100 thước, Đại đội 62 Dù Tiểu đoàn 6 của Ngô Xuân Vinh bắt tay Đại đội 81 Dù Tiểu đoàn 8 của Nguyễn Trọng Ni. Đây là cuộc bắt tay lịch sử. An Lộc được giải tỏa. 

Ngày 09 tháng 6, 23 trực thăng đáp xuống An Lộc an toàn. Tải thương, tiếp tế được bình thường.1

Suốt cuộc chiến, Sư đoàn 21 BB tổn thất 660 tử thương, 3.400 bị thương.3 Trung đoàn 15 thiệt hại 153 tử thương, 592 bị thương, 27 mất tích, mất 1 M60, 3 M79, 3 M16; địch 304 chết, mất 41 súng cộng đồng và 86 súng cá nhân, 2 PT76 bị hạ.1


pastedGraphic_49.png


Giao thông hào cho hệ thống chốt kiềng trên QL13





Chương 21


PHẢN CÔNG CỦA QUÂN TRÚ PHÒNG



1. Ngày 08 tháng 6, các đơn vị bên trong thị xã đã mở các cuộc hành quân ra bên ngoài cùng với sự tiến quân của các đơn vị giải tỏa từ phía Nam lên.

Trung đoàn 8 BB, Liên đoàn 81 BCD và Liên đoàn 3 BĐQ từ các khu vực trách nhiệm cùng tiến lên phía Bắc thị xã.

Ngày 10 tháng 6, Liên Ðoàn 81 BCD quét sạch tất cả các ổ kháng cự của Cộng quân trong các khu phố phía Bắc thị xã.

Ngày 11 tháng 6, Tổng Thống Thiệu đã gửi cho Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, yêu cầu chuyển lời khen nồng nhiệt của Ông đến Trung Tướng Tư Lệnh Quân đoàn 3, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 5 BB, Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 21 BB, tất cả các đơn vị trưởng cùng toàn thể các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã anh dũng chiến đấu bảo vệ Thị xã An Lộc và khai thông QL13. 

Ngày 12 tháng 6, Tiểu đoàn 36 BĐQ đã cắm cờ VNCH đầu tiên tại trại gia binh pháo binh. Kế đó, Tiểu đoàn 52 BĐQ đánh lên mặt Tây Bắc, đã chế ngự một cao điểm sát đồi Ðồng Long để yểm trợ cho Biệt Cách Dù tấn công đồi Ðồng Long, nơi CSBV đặt pháo bắn vào An Lộc từ mấy tháng qua.

Cùng ngày, Liên đoàn 81 BCD tái chiếm đồi Ðồng Long, cao 128 thước, cách An Lộc 500 thước về hướng Bắc. 

Lực lượng tấn công gồm có Ðại đội 2 Xung Kích do Ðại úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Ðại đội 3 Xung Kích do Ðại úy Phạm Châu Tài chỉ huy, và 4 toán Thám sát do Trung úy Lê Văn Lợi chỉ huy. Biệt Cách Dù chia làm 3 mũi - trái, phải và chính diện - hướng về mục tiêu. Họ xuất quân và đến lưng chừng đồi lúc nửa đêm, đồng loạt xung phong khi hừng đông vừa ló dạng. Bị đánh bất ngờ và vô cùng táo bạo, địch quân hoảng hốt bỏ chạy không kịp chống trả. Một số chạy thoát vào rừng để lại nhiều xác chết đó đây.

Trung úy Lê Văn Lợi hãnh diện cắm lá Quốc Kỳ VNCH trên đỉnh đồi Ðồng Long.

Ðại úy Phạm Châu Tài, Đại đội trưởng Ðại đội 3 Xung Kích BCD, viết trong “An Lộc chiến trường đi không hẹn”:

“Chiếm xong đồi Ðồng Long, Biệt Cách Dù truy kích, lục xoát xung quanh, và phát hiện một căn hầm sâu ven rừng, có tiếng động khả nghi bên trong. Tất cả họng súng đen ngòm hướng vào miệng hầm chờ đợi như con hổ rình mồi. Có tiếng hét lớn từ trong đám lính:

– Chui ra ngay, đầu hàng ngay, tao tung lựu đạn vào chết cả đám bây giờ!

– Khoan, dừng tay, coi chừng bắn lầm vào dân! Tiếng nói khẩn cấp của người chỉ huy từ xa vọng lại. Tất cả đều chờ đợi. Bước lại gần miệng hầm, người chỉ huy nói to:

– Chúng tôi là lính Việt Nam Cộng Hoà. Ai trốn trong hầm thì chui ra mau.

Câu nói được lập lại lần thứ hai. Có tiếng thút thít bên trong hầm vọng ra.

– Ra di, chui ra đi, không sao đâu!

Tiếng người lính thúc dục. Tiếng động bên trong rõ dần. Những ánh mắt long lanh của những chiến binh Biệt Cách Dù chùng xuống khi thấy hai em bé gái 9, 10 tuổi lê lết tấm thân tàn, chậm rãi bò ra khỏi căn hầm trú ẩn.

– Trời ơi! Hai đứa bé gái! Ba má các em đâu, sao lại như thế này? Còn ai trong đó không?

Người chỉ huy nắc nghẹn giọng nói. Hai em bé mặt mũi lem luốc, mắt mờ đẵm lệ, thân mình khô đét như hai bộ xương biết cử động, chỉ lắc đầu sau những câu hỏi dịu dàng của người chỉ huy Biệt Cách Dù. Hai em bé đã tránh bom đạn trong căn hầm này bao lâu rồi, một tháng, hai tháng, lấy gì ăn để sống đến nỗi thân thể phải xác xơ như thế này!

Ôi chiến tranh! Chiến tranh tàn khốc mà người Cộng Sản đã mang đến cho dân tộc mình như thế đó.”6

Trung đoàn 7 BB tiến quân vào khu vực trách nhiệm, bị mất ngày 11 tháng 5.

CSQG hành quân vào vùng trách nhiệm để mở rộng phạm vi phòng thủ và kiểm soát vòng đai hoạt động quanh BCH CSQG Tỉnh.

Các đơn vị Dù tiến ra phía cổng Xa Cam hầu tiếp giao với Trung đoàn 15 BB và Tiểu đoàn 6 Dù phối hợp tiến lên.

Các cánh quân đều tiến dễ dàng. Quân địch là các ổ kháng cự yếu ớt, một phần bị tiêu diệt và một phần bỏ chạy. Quân bạn tiến ra khỏi thị xã, mở rộng phạm vi phòng thủ và kiểm soát một vòng đai hoạt động tới 3 cây số.

2. Ngày 12 tháng 6, khi cờ VNCH phất phới bay trên đỉnh đồi Ðồng Long, Tướng Hưng tuyên bố: “Thị xã An Lộc được hoàn toàn giải toả”.

Ngày 14 tháng 6, Tiểu Ðoàn 3/8 đã giải toả đồi 100 phía Tây Bắc An Lộc và cắm cờ Tiểu Ðoàn trên đồi này.

pastedGraphic_50.png


Phản công của quân trú phòng


Ngày 16 tháng 6, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3, kể từ ngày bị bao vây, lần đầu tiên đáp xuống thị xã giữa tiếng hoan hô của các chiến sĩ trấn thủ.

pastedGraphic_51.png

Từ trái sang phải: Đại tá Trần Văn Nhựt, Đại tá Lê Quang Lưỡng, Trung tướng Lê Văn Minh, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng

Trung tướng Minh thị sát thị xã và thăm viếng các chiến sĩ. Một niềm phấn khởi dâng lên trong tinh thần huynh đệ chi binh. 

Ngày 18 tháng 6, Tướng Minh tuyên bố cuộc bao vây thị xã An Lộc bị đánh bại hoàn toàn.1

3. Sau hơn ba tháng giao tranh, tổn thất hai bên trong cuộc chiến An Lộc là:

CSBV: Bắn 78.000 đạn đại bác và hoả tiễn. 10.000 quân tử thương, 15.000 bị thương, 56 tù binh. 50 thiết vận xa, 150 quân xa hư hại. 80 xe tăng và xe phòng không bị phá hủy.

VNCH: 270 phi vụ B52 chiến lược, 9.200 phi vụ chiến thuật. 5.400 quân tử thương, 8.600 bị thương, 2.300 mất tích. 25.000 thường dân chết và bị thương.Không quân VNCH và Mỹ mất 3 phi cơ C130, 2 C123, 2 L19, một số Skyraider AD6, 20 trực thăng Cobra UH1 của Mỹ và một số nhỏ trực thăng võ trang HU1D của VNCH.3







Chương 22


TỔNG THỐNG VNCH VÀO THĂM AN LỘC

07-7-1972



1. Ngày 07 tháng 7, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH đã đáp trực thăng đến thăm An Lộc, giữa tiếng hoan hô của các chiến sĩ trấn thủ. Tin này được loan truyền khắp nơi: VNCH đã chiến thắng An Lộc. 


pastedGraphic_52.png


Từ trái sang phải: Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn3, Đại tá Bùi Đức Điềm, Phụ tá hành quân SĐ5BB, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh SĐ5BB, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại tá Trần Văn Nhựt, Tiểu khu trưởng Bình Long.

Sau khi di chuyển xe díp vào Bộ chỉ huy Sư đoàn 5 BB, Tổng thống VNCH đã đặc cách vinh thăng ngoài mặt trận một số chiến sĩ và trao tặng một số huy chương. Ông nhấn mạnh “những cấp bậc và huy chương trao tặng hôm nay chỉ là tượng trưng và tất cả các chiến sĩ chiến đấu tại An Lộc đều được thăng một cấp.”

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố tại An Lộc: BÌNH LONG ANH DŨNG.

“Hôm nay tôi đến đây, tôi thăm các anh em có mặt ở đây, thăm anh em đang chiến đấu chung quanh thị xã này và còn đang chiến đấu tại thị xã này. Tôi thăm tất cả những người đã nằm xuống, đã chấp nhận hy sinh cùng toàn dân toàn quân để bảo vệ cho Bình Long này.

Bình Long này không phải là tiêu biểu cho một trận chiến, không phải tiêu biểu cho một mặt trận của Quân đoàn III, Quân khu 3. BÌNH LONG LÀ MỘT TIÊU BIỂU CỦA QUỐC GIA VÀ CẢ MỘT TIÊU BIỂU QUỐC TẾ.

Hôm nay tôi tuyên bố: BÌNH LONG ANH DŨNG LÀ MỘT TIÊU BIỂU QUỐC GIA.

Rồi đây, mỗi thi hành phải có một con đường, một công trường mang danh hiệu BÌNH LONG ANH DŨNG. Tôi chắc rằng những chiến tích ở đây đã vang dội trên thế giới và tôi sẽ thể hiện điều đó bằng cách gởi những chiến lợi phẩm này cho tất cả các quốc gia tự do trên thế giới. Và chỗ nào có chiến lợi phẩm của Bình Long có nghĩa là tên tuổi của các anh em đã đi vào lịch sử và đã được nhân dân ở đó ngưỡng mộ qua chiến lợi phẩm đó.

Và tôi cho rằng Bình Long này là bước đầu tiên của sự thất bại hoàn toàn, không phải của Bắc Việt mà thôi, mà là thất bại hoàn toàn, sụp đổ hoàn toàn của cả một chủ thuyết của đế quốc Cộng sản thường gọi là chủ thuyết chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng.

Chỉ có nước Việt Nam là nước đầu tiên, dân tộc Việt Nam, quân đội Việt Nam là dân tộc đầu tiên và quân đội đầu tiên đã đánh sụp đổ, đánh tiêu tan, đánh ngã gục cái chủ thuyết “chiến tranh nhân dân và chiến tranh giải phóng” do bọn Cộng sản chủ xướng. Chúng ta là người lãnh đạo, quân đội và nhân dân Việt Nam sẽ lãnh đạo cho Thế giới Tự do nào muốn chống lại chủ thuyết đó. Đây không phải là một chiến thắng thông thường của miền Nam đối với cả cái chủ thuyết và đế quốc Cộng sản. Đây là chiến thắng của cả Thế giới Tự do mà miền Nam là đại diện, là tiền đồn anh dũng đã thắng cả một chủ thuyết và một mưu đồ xâm lược của thế giới Cộng sản.”1

2. Sau đó, dưới cơn mưa bụi, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đi thăm thị xã đổ nát, làm lễ tưởng niệm các anh hùng chiến sĩ đã bỏ mình ở chiến trường An Lộc tại nghĩa trang Biệt Cách Dù.


pastedGraphic_53.png

Nghĩa trang Biệt Cách Dù

Trên đài tưởng niệm có hàng chữ: “Liên đoàn 81/BCND ngày 2-6-72”. Dưới chân đài tưởng niệm là hai câu thơ của cô giáo Pha tặng Liên đoàn:

“An Lộc địa, sử ghi chiến tích,  

       Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân.”6

Ðại úy Phạm Châu Tài, Đại đội trưởng Ðại đội 3 Xung Kích BCD, viết trong “An Lộc, chiến trường đi không hẹn”:

“Bên phố chợ, người dân ngậm ngùi nhìn thấy những nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù mỗi ngày một nhiều hơn. Họ đánh nhau hằng đêm và hì hục chôn xác bạn bè hằng đêm trong mưa pháo tuôn rơi, khi mặt trời chưa thức giấc. Sống, chiến đấu bên nhau trong cuộc hành trình gian khổ để tiêu diệt quân thù trên khắp nẻo đường đất nước, lòng thuỷ chung và tình chiến hữu keo sơn chan hoà thắm thiết khi có người nằm xuống, vĩnh viễn ra đi. Hình ảnh nghĩa trang Biệt Cách Dù đã nói lên điều đó.

Trong hoang tàn và đổ vỡ của một thành phố đã chịu đựng sức tàn phá hãi hùng của đạn bom, hai câu thơ của cô giáo Pha được Biệt Cách Dù cứu thoát khi bị thương, được khắc trên đài tưởng niệm trước nghĩa trang bên phố chợ đìu hiu, mà trong đó 68 nấm mồ của tử sĩ Biệt Cách Dù được chôn vội vã từng đêm khi chiến trận tàn khốc xảy ra đã làm mủi lòng dân cả nước với lòng ngưỡng mộ và niềm xúc cảm vô biên.”6












Chương 23


THAY QU ÂN



1. Ngày 18 tháng 6, Quân đoàn 3 trả Lữ đoàn 1 Dù về hậu cứ Trần Quý Mại trong trại Hoàng Hoa Thám, Sài gòn, chỉ có một đêm, rồi được không vận tăng cường cho mặt trận Quảng Trị.

2. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù vào An Lộc ngày 16 tháng 4, và ra khỏi An Lộc ngày 24 tháng 6, đúng 68 ngày tham chiến, được bổ xung quân số và dưỡng quân 2 ngày, rồi được không vận tăng cường cho mặt trận Quảng Trị. 

3. Ngày 07 tháng 7, toàn bộ Liên đoàn 3 BĐQ được trực thăng vận ra khỏi An Lộc về Lai Khê để nhận lệnh mới.

4. Ngày 11 tháng 7, Sư đoàn 18 BB do Đại tá Lê Minh Đảo chỉ huy được trực thăng vận vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5 BB. Ngày 12 tháng 7, Sư đoàn 18 Bộ binh nhận trách nhiệm trấn giữ An Lộc. 

5. Ngày 11 tháng 7, Sư đoàn 25 BB từ Tây Ninh được di chuyển đến Chơn Thành thay thế Sư đoàn 21 BB.

6. Ngày 14 tháng 7, đoàn trực thăng cuối cùng chở Ðại đội Trinh Sát và Tư lệnh Phó Sư đoàn 5 BB rời An Lộc chấm dứt 3 tháng 7 ngày Sư đoàn 5 BB tử thủ An Lộc. Sư đoàn 5 BB về Lai Khê.

7. Ngày 24 tháng 7, Sư đoàn 21 BB và Chiến đoàn 15 Sư đoàn 9 BB rời Lai Khê về Quân Khu 4.1


pastedGraphic_54.png


An Lộc trước 1972

pastedGraphic_55.png

An Lộc sau 1972






KẾT LUẬN



Việc chiếm Bình Long của CSBV không thành. Mưu đồ tấn chiếm thủ đô Sài Gòn của CSBV đã bị chận đứng tại An Lộc. Khắp các trận tuyến, CSBV đã bị VNCH đẩy lui. Mưu đồ xâm lăng VNCH của CSBV cũng sụp đổ hoàn toàn.

Chiến thắng rực rỡ này đã nói lên tinh thần bất khuất của QLVNCH quyết tâm bảo vệ Quê hương. Thị xã An Lộc không mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt, nhưng đã bị hủy diệt bởi bom đạn. Phố xá chỉ còn là đống đổ nát.

Bình Long Anh Dũng. An Lộc đã chiến thắng. An Lộc sẽ ở mãi trong lòng quân dân nước Việt.

NHỚ AN LỘC7                                            

Vừa đổ quân xuống đầu phi đạo,

Quanh ta đã thấy khói chiến trường.

An Lộc đang chìm trong biển lửa!

Ngậm ngùi quê mẹ quá đau thương!


Ba lô trên vai chưa kịp xuống,

Pháo địch nổ ngay trên đỉnh đầu,

Bao người ngã chết trong chớp mắt!

Máu loang đất mẹ khóc niềm đau!


Xa Cam hỗn loạn dân di tản,

Pháo giặc rót vào giết dân oan.

Nghiến răng ngăn lệ trào khóe mắt,

Căm thù giặc ác tận tâm can!


Ta chuyển quân theo bảo vệ dân,

Thương đàn em nhỏ mất người thân!

Đầu xanh nào có vương chi tội?

Mà đã bơ vơ giữa bụi trần.


Mười ngàn quả pháo rót từng ngày!

Người chết nhiều lần không toàn thây.

Ta cùng chiến hữu ghìm tay súng,

Bảo vệ an nguy thị trấn này.


Có người lính trẻ bị trọng thương!

Gần chết nhưng anh vẫn can trường,

Đồng hồ vội cởi ra đưa bạn,

“Mày về nói Mẹ chớ đau thương!”


Rồi vài tuần sau người bạn ấy,

Lại cũng hy sinh nơi tuyến đầu.

Trong tay vẫn còn mang kỷ vật,

Chưa về gặp Mẹ bạn mà trao!!!


Xe tăng địch tiến vào thị trấn,

Ta giương nòng súng khẩu bảy hai,

Khai hỏa diệt tăng, tăng bốc cháy,

Nức lòng chiến hữu kể từ đây.


Chiếm lại Đồng Long giữ nhà thờ,

Đóng quân dưới tượng chúa KITÔ,

Dang tay tượng Chúa như thương xót,

Mắt đượm buồn quanh khói đạn mờ!


Nghe tin quân bạn vừa tan hàng!

Quân Dù đồi Gió đã tan hoang,

Giặc thù vây bủa đông như kiến!

Tử thủ quân ta quyết chẳng hàng.


Tiếp viện Nhảy dù cùng Biệt kích,

Từng đêm cận chiến với địch quân,

Giải tỏa từng căn nhà trong phố,

Đẩy lui bọn cộng chạy xa dần.


Tăng giặc nằm ngổn ngang khắp nơi,

Thị trấn giờ đây giải tỏa rồi.

Ba tháng dài như ba thế kỷ,

Chiến hữu cùng ta vui reo cười.


Bây giờ đã mấy chục năm qua,

An Lộc năm xưa vẫn chưa nhòa.

Trận chiến đã đi vào lịch sử,

Trong ta còn mãi khúc hùng ca.

               Ngọc Trân


pastedGraphic_56.png


Về phép?





TÀI LIỆU THAM KHẢO



1. Chiến Sử Trận Bình Long do Nha Quân Sử Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH phát hành năm 1973.

2. Nhật ký Hành quân của Sư đoàn 5 Bộ binh về trận An Lộc năm 1972.

3. James H. Willbanks, Thiet Giap! The Battle of An Loc, April 1972.

4. Mạch Văn Trường, Trung đoàn 8 Bộ binh và trận chiến An Lộc, 1972.

5. Phan Nhật Nam, Mùa Hè Đỏ Lửa: bút ký chiến tranh, Việt Nam, 1972.

6. Phạm Châu Tài, An Lộc chiến trường đi không hẹn, KBC Hải Ngoại số 26, 2012.

7. Đồng hương Bình Long, Biên khảoTỉnh Bình Long,

2016.

8. LTC Len Funk, USA – Ret, The Siege at An Loc: How Air Resupply Helped Save the City.

9. BĐQ Nguyễn Quốc Khuê, Liên đoàn 3 Biệt Động Quân với Trận Chiến An Lộc – Bình Long, KBC Hải Ngoại số 14, 2007.













CHỮ VIẾT TẮT


BB: Bộ Binh

BCD: Biệt Cách Dù

BCH: Bộ Chỉ Huy

BĐQ: Biệt Động Quân

CBU: Cluster Bomb Unit

CSBV: Cộng Sản Bắc Việt

CSDC: Cảnh Sát Dã Chiến

CSQG: Cảnh Sát Quốc Gia

CSSP: Cảnh Sát Sắc Phục

ĐĐ: Đại đội

ĐPQ: Địa Phương Quân

HALO: High Altitude Low Open

LTL: Liên Tỉnh Lộ

M72 LAW: Light Anti-Tank Weapon

MACV: Military Assistance Command, Vietnam

MTGPMN: Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam

ND: Nhảy Dù

PB: Pháo binh

PC: bộ chỉ huy

QL: Quốc Lộ

QLVNCH: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

TĐ: Tiểu đoàn

TOT: Total On Target 

VC: Việt Cộng

VNCH: Việt Nam Cộng Hòa

Số: Tham chiếu số

(-): Đơn vị không đủ cấp số quân





MỤC LỤC


Lời mở đầu

5

Chương 1: Mùa hè đỏ lửa 1972

7

Chương 2: Tỉnh Bình Long

9

Chương 3: Kế hoạch của CSBV tại Quân khu III

13

Chương 4: Trận Lộc Ninh 

17

Chương 5: Phản ứng của VNCH

24

Chương 6: Trận Quản Lợi (TrĐ 7 BB về An Lộc)

27

Chương 7: Liên đoàn 3 BÐQ vào An Lộc

29

Chương 8: Bộ tham mưu SĐ 5 BB vào An Lộc

36

Chương 9: Trận Cần Lê (TrĐ 52 BB về An Lộc)

39

Chương 10: Trung đoàn 8 BB vào An Lộc

43

Chương 11: CSBV tấn công An Lộc lần 1

46

Chương 12: Giải tỏa quốc lộ 13 lần 1 

56

Chương 13: CSBV tấn công An Lộc lần 2

62

Chương 14: Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vào An Lộc

69

Chương 15: Liên đoàn 81 BCD vào An Lộc

74

Chương 16: CSBV tấn công An Lộc lần 3

78

Chương 17: Giải tỏa quốc lộ 13 lần 2 

89

Chương 18: Bên lề cuộc chiến

95

Chương 19: CSBV tấn công An Lộc lần 4

108

Chương 20: Giải tỏa quốc lộ 13 lần 3 

118

Chương 21: Phản công của quân trú phòng 

123

Chương 22: Tổng Thống VNCH thăm An Lộc 

128

Chương 23:Thay quân

132

Kết luận

135

Tài liệu tham khảo

138

Chữ viết tắt

139

Mục lục

140




Hình ảnh Trận An Lộc

(từ Internet)


Image.png











Image.png

















































Đi đâu? - Las Vegas.