Những Ngày Cuối Cùng của Trường Bộ Binh - Nguyễn Ngọc Thạch K20 VOBI
Nguyễn Ngọc Thạch K20
Sau thời gian phục vụ tại Sư đoàn 5 Bộ Binh, tôi được thuyên chuyển về Trường Bộ Binh Thủ Đức, theo nhu cầu hoán chuyển các sĩ quan có kinh nghiệm chiến trường về các quân trường. Chức vụ sau cùng là Trưởng phòng Kế hoạch của Trường Bộ Binh.
Trường Bộ Binh là một quân trường chuyên đào tạo các sĩ quan trừ bị cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Lúc trứớc trường tọa lạc ở Thủ Đức. Đến đầu năm 1974 thì dời ra Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh quốc lộ 15, đường Sài Gòn - Vũng Tàu và cách quận lỵ Long Thành 5 cây số. Tại đây Trường Bộ Binh kết hợp với Trường Thiết Giáp và Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, lập thành Huấn khu Long Thành. Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.
Đến đầu tháng 4, 1975, trong lúc đất nuớc đang lâm vào tình trạng vô cùng nguy ngập, Quân đoàn I và Quân đoàn II đa di tản, cộng quân vào đến Nha Trang, thì Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi được chỉ định ra làm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III, trấn đóng ở phi trường Thành Son, phía bắc thị xã Phan Rang, để ngăn chặn địch đang ào ạt tiến vô nam. Ngày 16 tháng 4, quân CSBV chiếm thị xã Phan Rang và phi trường Thành Son. Bộ chỉ huy Tiền phương QĐ III phải rút về phía Đông Nam ra Cà Ná. Nhưng trong đêm đó phần lớn đa bị bắt trong đó có Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi Tư lệnh Tiền phương QĐ III, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù v.v…
Sau khi Trung tướng Nguyễn Vinh Nghi ra làm tư lệnh Tiền phương QĐ III thì Đại tá Trần Đức Minh đang là Chỉ huy phó Truờng Bộ Binh được Bộ Tổng Tham Muu chỉ định lên thay thế làm Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Long Thành.
Đầu tháng 4, 1975 Trường Võ Bị Quốc Gia là trường sĩ quan hiện dịch, di tản từ Đà Lạt về Long Thành và tạm trú chung với Trường Bộ Binh. Hai tuần sau Trường Võ Bị cho làm lể mản khóa hai khóa 28 và 29 ra trường cùng một lúc, còn lại hai khóa 30 và 31.
Cũng vào đầu tháng 4, 1975 cộng quân bắt đầu gia tăng áp lực, mở các cuộc tấn công vào Huấn khu Long Thành. Đặc công VC đã mấy lần định xâm nhập Trung tâm Huấn luyện Yên Thế, nhưng đã bị Biệt kích Lôi Hổ tiêu diệt gọn. Trường Thiết Giáp cũng bị tấn công liên tục, nhưng nhờ tài chỉ huy khéo léo với nhiều kinh nghiệm chiến trường của Đại tá Tám, nên đã giử vững được căn cứ này cho đến cuối cùng.
Ngày 9 tháng 4, 1975 cộng quân tấn công vào thị xã Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh chỉ cách Sài Gòn 80 cậy số về hướng Đông và cách Huấn khu Long Thành chừng 20 cây số. Trong trận tấn công này lực lượng địch gồm có Sư đoàn 7 Bắc Việt làm mủi chủ công từ hướng Đông Bắc đánh vào thị xã Xuân Lộc, Sư đoàn 341 Bắc Việt từ hướng Tây Bắc đánh vào khu vực phòng thủ của Sư đoàn 18 Bộ Binh/QLVNCH. Riêng Sư đoàn 6 Bắc Việt đánh Dầu Giây.
Quân trú phòng ở Xuân Lộc gồm toàn bộ Sư đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân/Biên Phòng của Thiếu tá Vương Mộng Long K20/VB vừa di tản từ Quân Khu 2 về, cùng các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh, đã chống trả vô cùng anh dũng. Tất cả các mủi tấn công của quân Bắc Việt đều bị chận đứng. Riêng mủi chủ công của Sư đoàn 7 Bắc Việt đã lọt vào được vài nơi trong thị xã nhưng đã bị quân ta chận đánh quyết liệt và ngay ngày hôm sau đã bị quân ta phản kích dữ dội, hai bên giành nhau từng căn nhà, từng mảng tường.
Ngày 12 tháng 4, 1975 Quân đoàn III đã cấp tốc trực thăng vận Lữ đoàn 1 Nhảy Dù xuống tăng viện cho Xuân Lộc. Tiếp đó là Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bô Binh, và một bộ phận của Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, theo hướng quốc lộ 1 từ Biên Hòa cùng tiến lên để giải tỏa áp lực địch. Đặc biệt Không Quân Việt Nam cũng đã huy động tối đa để yểm trợ, và sự yểm trợ lần này rất là hữu hiệu, vì ngoài phi cơ chiến thuật, Không Quân Việt Nam đã sử dụng cả phi cơ vận tải C130 cải biến để chở những khung vỉ sắt chứa nhiều quả bom hạng nặng như bom Daisy Cutter 15.000 cân Anh, bom CBU-55, mà phía Hoa Kỳ thường sử dụng để phát quang làm bãi đáp trực thăng hay vị trí pháo binh, và nhiều phuy xăng JP4 dùng làm bom napalm. Máy bay bay trên cao độ 15.000 đến 20.000 bộ để tránh phòng không địch và được điều khiển bằng vô tuyến cho rơi đúng vào các mục tiêu ấn định. Có hai quả bom CBU-55 đã rơi trúng vào nơi đóng quân của Sư đoàn 341 CSBV, gây tổn thất nặng nề cho địch và làm cho tinh thần cán binh CSBV bị dao động mạnh vì tưởng là bom B52. Tướng cộng sản Trần Văn Trà đích thân xuống mặt trận xem xét tình hình, thấy không chiếm được Xuân Lộc nên bèn quay sang đánh vòng ngoài nhằm vào các đơn vị của Quân lực VNCH đang tăng viện về hướng Biên Hòa.
Nếu như lúc đó Hoa Kỳ chịu giúp miền Nam Việt Nam thêm một thời gian ngắn nữa, để yểm trợ cho Quân lực VNCH, chỉ bằng không lực mà thôi, thì các sư đoàn CSBV sẽ bị tiêu diệt một cách dễ dàng, vì họ đa công khai xuất đầu lộ diện, thật là những mục tiêu rất tốt cho pháo đai bay B52 và như thế tình hình có thể đảo ngược đuợc, như đã xảy ra ở trận chiến Triều Tiên năm 1950.
Nhắc lại trận chiến Triều Tiên, ngày 25 tháng 6 năm 1950 quân đội Cộng Sản Bắc Hàn do Trung Cộng yểm trợ đánh đuổi quân đội Đồng Minh mà chính yếu là Hoa Kỳ, chạy dài từ Bắc xuống Nam cho đến tận cùng bán đảo Triều Tiên, chỉ còn giử đuợc phần đất vùng Pusan, dự trù để làm đầu cầu để phản công sau này. Ngày 15 tháng 9 năm 1950 dưới sự chỉ huy tài ba của Tướng Douglas Mc. Arthur, đã điều quân xuất thần cho đổ bộ ở Inchon, một bờ biển phía Tây ngang Hán Thành và cách vi tuyến 38 về phía nam 100 dậm. Đây là một kế hoạch vô cùng tinh vi và táo bạo, đã đánh thẳng vào hậu phuong địch, cắt đứt mọi đường tiếp tế lương thực đạn dược và đã làm cho các sư đoàn của cộng quân đang tiến sâu về phía nam hoàn toàn bị tê liệt, kiệt huệ, và tan rã và đưa đến kết quả là 125.000 quân Cộng Sản Bắc Hàn phải ra đầu hàng.
Ngày 20 tháng 4, 1975 Sư đoàn 18 Bộ Binh, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, và lực lượng Tiểu khu Long Khánh rút khỏi Xuân Lộc theo liên tỉnh lộ 2 về Bà Rịa. Từ đây Sư đoàn 18 Bộ Binh lên xe về Long Bình, còn Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ra bảo vệ thị xã Vung Tàu. Cuộc rút lui đã diễn ra êm thắm, tổn thất không đáng kể, riêng Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long Khánh trên đường rút lui đã bị thương và bị bắt.
Vào đầu tháng 4/75 khi tình hình đất nước đang lâm vào tình trạng nguy ngập, Đại tá Minh có ra lệnh cho phòng Kế hoạch phối hợp cùng với Trung tá Trần Văn Hạnh Trưởng phòng TVM (Tác Xạ Vũ Khí Mìn), để nghiên cứu và soạn thảo một kế hoạch phòng thủ cho thật vững chắc. Tận dụng tối đa hỏa lực co hửu của trường, sử dụng mìn Claymore gài tự động, cho nuôi thêm 100 con ngỗng để tăng cường hệ thống canh gác báo động. Phòng Kế hoạch cũng đã đề ra hai phương án để rút lui khi cần. Phương án thứ nhất là di tản chiến thuật ra Vũng Tàu. Phương án thứ hai là di chuyển về trường củ ở Thủ Đức.
Ngày 22 tháng 4, 1975, Trường Bộ Binh và Truờng Võ Bị được lệnh di tản về Thủ Đức. Trường Bộ Binh chỉ di tản một nửa quân số về Thủ Đức, còn một nửa quân số ở lại Long Thành, và dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Văn Phú, phòng thủ bảo vệ trường để chờ ngày trở lại.
Khi về đến Thủ Đức, Truờng Bộ Binh nhận lại trách nhiệm phòng thủ Huấn khu Thủ Đức và đồng thời sẳn sàng các Tiểu đoàn SVSQ để về tăng cường bảo vệ Thủ đô. Trong lúc này Trung tướng Nguyễn Bão Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn có chỉ định Đại tá Lộ Công Danh hiện đang là Liên đoàn trưởng Liên đoàn SVSQ của Trường Bộ Binh tạm thời thay thế Thiếu tướng Lâm Quang Thơ làm Chỉ huy trưởng Truờng Võ Bị Quốc Gia.
Đem 26 tháng 4, 1975, cộng quân mở cuộc tấn công đại qui mô vào Huấn khu Long Thành, Trường Bộ Binh ở Long Thành bị mất liên lạc. Tôi và người mang máy truyền tin phải leo lên lầu nước thật cao ở trong Trường Bộ Binh ở Thủ Đức để tìm cách liên lạc với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Lê Văn Phú, vì ông ra ngoài giao thống hào ở địa thế thấp nên máy truyền tin không liên lạc xa được, nhưng nhờ tôi leo lên cao nên bắt liên lạc lại được với Trường Bộ Binh ở Long Thành. Đại tá Phú cho biết hiện cộng quân đang mở các đợt tấn công rất ác liệt nhưng không chọc thủng nỗi phòng tuyến quá kiên cố của ta. Ông cũng cho biết là Trường Thiết Giáp vừa bị thất thủ, Đại tá Tám Chỉ huy trưởng Trường Thiết Giáp vừa mới qua hợp ở Trường Bộ Binh Long Thành, trên đường trở về ông đa bị cộng quân phục kích và bị mất liên lạc vào khoảng 6 giờ chiều. Riêng Trung tâm Huấn luyện Yên Thế thì hoàn toàn bị mất liên lạc, im lặng vô tuyến kể từ chiều hôm đó. Đại tá Minh liền liên lạc với Đại tá Phan Huy Lương, Tham mưu phó Quân đoàn III, để báo cáo tình hình và xin yểm trợ. Nhưng Bộ tư lệnh Quân đoàn III đã hoàn toàn không có phản ứng, vì đang triệt thoái.
Sáng sớm hôm sau, tôi đi cùng với Đại tá Minh lên Biên Hòa để tìm phương cách chống đở cho nửa truờng còn lại ở Long Thành. Đường đi lúc đó thật vắng tanh, chúng tôi gặp Thiếu tá Hòa Quận trưởng quận Thủ Đức đang lăng xăng điều động các lực lượng của chi khu. Tôi có hỏi về tình hình trên lộ trình đi, thì ông ta khuyên không nên đi trong lúc này rất là nguy hiểm, vì hiện đang có các trận đụng độ gần khu vực Chợ Đồn. Nhưng vì nóng lòng nửa trường còn lại ở Long Thành nên chúng tôi quyết phải đi .
Khi tới Biên Hòa, thành phố thật vắng lặng như một thành phố chết. Chúng tôi chạy thẳng vô Bộ chỉ huy của Tiểu khu Biên Hòa. Khi bước vào Trung tâm Hành quân / Tiểu khu, chúng tôi không thấy Tiểu khu trưởng hay Tiểu khu phó đâu cả, mà chỉ thấy có Đại tá Thới, Tham mưu trưởng là còn đang làm việc. Ông hiện đang bấn loạn, vì phải vừa lo điều động các lực lượng của Tiểu khu đang chống trả kịch liệt với địch, đồng thời phải lo phương tiện trực thăng để đi cấp cứu Trung tá Quận trưởng quận Long Thành. Đem qua lực lượng Địa Phương Quân và Nghiã Quân của chi khu Long Thành đa anh dung chiến đấu chống trả vô cùng quyết liệt, bắn cháy một số chiến xa địch, cầm cự cho đến sáng mới bị tràn ngập. Trung tá Quận trưởng đã chạy thoát được ra ngoài và dùng máy vô tuyến liên lạc về Tiểu khu xin cứu viện.
Vì tình trạng quá căng thẳng của Tiểu khu Biên Hòa và vì Đại tá Thới đang quá bận rộn, thấy không thuận tiện để bàn thảo gì đuợc, nên chúng tôi phải rời bỏ Tiểu khu Biên Hòa để đi thẳng vô căn cứ Long Bình nơi đặt Bộ chỉ huy của Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Tại đây, tôi đuợc gặp lại các bạn bè cùng các niên trưởng tay bắt mặt mừng, kể lể mọi chuyện, mà quên đi chiến trận đang gần kề. Mặc dù trong tình thế cực kỳ sôi động nhu vậy, nhưng Thủy Quân Lục Chiến vẫn giữ vững tinh thấn chiến đấu, không hề nao núng, vẫn quyết tâm chận địch trên đầu dốc 47 của quốc lộ 15 và còn nhắn nhủ với Truờng Bộ Binh Long Thành là phải đồng tâm hiệp lực quyết ngăn chặn không cho nón cối dép râu bước vô Sài Gòn.
Đại tá Minh cứ lấy làm tiếc là đang ở quân trường gồm toàn những SVSQ đang thụ huấn, nên không có khả năng chiến đấu như các đon vị tác chiến trước đây. Nhớ lại thời hành quân sang Kampuchia, năm 1970, ông là Chiến đoàn trưởng, và tôi là Sĩ quan Hành quân. Chiến đoàn 9 đặc nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ Binh đã tấn công vào tận sào huyệt của VC nằm sâu bên kia biên giới Việt Miên, quét sạch các mật khu an toàn của VC trong vùng Lưởi Câu, tịch thu rất nhiều kho vu khí, lương thực, đạn dược của cộng quân, đem lại nhiều chiến thắng vẻ vang cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi xin nói thêm ở đây là các cuộc hành quân vượt biên sang Kampuchia là hoàn toàn do Quân lực VNCH đam nhiệm, các cố vấn Mỹ lên máy bay trực thăng bay trở về, ngay khi đơn vị đi đầu vượt qua biên giới.
Sau khi phối hợp cùng các đơn vị bạn, và chỉ thị rõ ràng cho Đại tá Phú xong, chúng tôi liền quay trở về Thủ Đức. Và trên đường trở về chúng tôi còn thấy rõ các rương mìn chất nổ đã được đặt sẳn hai bên cầu sông Đồng Nai. Theo như kế hoạch đã định thì sau khi rút quân xong thì cầu Đồng Nai phải bị giật xập không cho thiết giáp và cơ giới của cộng quân vượt qua sông. Mà nếu cộng quân có khả năng làm cầu nổi thì ta sẽ dùng phi cơ oanh tạc.
Trường Thiết Giáp đã thất thủ, Trung tâm Huấn luyện Yên Thế đã mất liên lạc, quận Long Thành đa bị tràn ngập, giờ đây Trường Bộ Binh Long Thành đương nhiên trở thành tiền đồn ngăn chặn địch mà cộng quân quyết phải thanh toán cho bằng được để tiến thẳng về Sài Gòn.
Trong đêm đó, 27 tháng 4, 1975, cộng quân tấn công dữ dội Trường Bộ Binh ở Long Thành, nhưng đã bị lực lượng phòng thủ của trường do Thiếu tá Hồ Đắc Tùng K20 trực tiếp chỉ huy chống trả quyết liệt. Lúc đó ở Thủ Đức toàn bộ Bộ Chỉ Huy của Trường Bộ Binh đang vây quanh máy truyền tin để theo dõi. Một số gia đinh hiện có thân nhân còn đang chiến đấu ở Long Thành cũng ngồi quanh đó. Tất cả mọi người đều hồi hợp theo dõi, nhưng với tâm trạng thật là bi quan, đành bó tay chịu trận. Tôi thấy bà xã của Đại Úy Trác ngồi khóc mếu máo, Tôi còn nhớ lời nói mỉa mai đau khổ của Đại tá Minh: “Trung Hoa Dân Quốc còn có đảo Đai Loan để mà chạy ra, chớ Việt Nam mình không biết đi đâu?”. Hồi thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm còn có chuẩn bị đảo Phú Quốc để mà tử thủ. Nhung bây giờ thì không còn nghe nói gì đến đảo này nữa.
Quân trú phòng Trường Bộ Binh Long Thành đa anh dũng chiến đấu, cầm cự cho đến sáng. Nhưng vì quân địch quá đông, nên sau cùng thì Đại tá Phú phải ra lệnh cho rút lui theo nhu kế hoạch đa định. Sau này theo tài liệu của Cộng Sản Bắc Việt thì ngày 27 tháng 4, Sư đoàn 304/CSBV đã đụng độ dữ dội với các đơn vị Nam Việt Nam ở khu vực Nước Trong (VC gọi Huấn khu Long Thành là khu vực Nước Trong). Sau khi chiếm được khu vực Nước Trong rồi, nhưng khi tiến quân về hướng cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Sư đoàn 304/CSBV vẫn bị chận đánh và phải đợi đến ngày 29 mới chiếm được cầu này.
Sáng ngày 30 tháng 4, 1975 vào lúc 8 giờ 30, Đại úy Nguyễn Thành Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5/SVSQ/TBB đang chỉ huy phòng tuyến chính mặt xa lộ báo cáo là thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của cộng quân đang di chuyển trên xa lộ Biên Hòa tiến về Sài Gòn. Tôi hết sức ngạc nhiên vì theo nhu kế hoạch đã định thì cầu Đồng Nai phải bị giật xập, không cho thiết giáp và cơ giới của VC vượt qua sông. Tôi liền liên lạc báo cáo về Biệt khu Thủ Đô. Trong lúc đó thì Trung tâm Hành quân / BKTĐ không ra lệnh dứt khoát mà chỉ nói là tùy nghi đon vị. Không một chút do dự, Đại tá Minh liền xác quyết trách nhiệm một cách rất rõ ràng là: “Bổn phận của chúng ta là quân đội là phải bảo vệ đất nuớc, thấy địch là đánh”. Tôi liền truyền lệnh của Đại tá Chỉ huy trưởng đến các đơn vị, đồng thời gọi cho Hiếu chấm tọa độ và điều chỉnh cho các khẩu đội súng cối 81 ly tác xạ. Đồng thời tôi gọi cho các pháo đội pháo binh 105 ly, 155 ly và 175 ly chuẩn bị sẳn sàng. Đây là các loại pháo binh để yểm trợ tầm xa, mà Quân đoàn III gởi tạm ở đây. Nhưng trong giờ phút quyết liệt này, tôi dự trù sẽ sử dụng để bắn trực xạ. Súng 175 ly được đặt trên thiết giáp nên dễ dàng di chuyển, điều động.
Bị sức kháng cự mạnh mẽ của Trường Bộ Binh, nên cộng quân liền đổi hướng tấn công xông thẳng vào Trường Bộ Binh. Một chiếc thiết giáp T54 ủi sập chướng ngại vật ở cổng chính và chạy thẳng vào trong, vừa chạy vừa bắn phá loạn xạ. Trong khi đó thì súng đại liên ở cầu Bến Nọc mà VC vừa chiếm được đem qua, bắn xối xả vào trường ở phía cổng số 9 tức cổng sau của Trường Bộ Binh. Lúc đó súng nhỏ bên ta bắn trả dử dội tóe lửa vào chiếc chiến xa. Tôi thấy rõ chiếc chiến xa khi nó tới gần, súng trên pháo tháp quay qua bắn sập Trung tâm Hành quân, vì trên nóc TTHQ có nhiều cần ăng ten nên dễ thấy. Thiếu tá Lầu thuộc Trường Tổng Quản Trị đang ở trong đó may mắn thoát nạn, trong khi đó thì Đại tá Minh cùng Bộ chỉ huy nhẹ đang ở cách đó không xa.
Khi chiếc chiến xa này chạy xuống tới cổng số 9 thì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của các SVSQ do Thiếu tá Phạm Hưng Long K20 chỉ huy giử mặt hậu của Trường Bộ Binh, nên liền quay đầu chạy ngược lại. Chúng tôi đa tìm cách kêu gọi đối phương ra đầu hàng nhưng không có kết quả. SVSQ có thấy người lái chiến xa đứng lên dường như có ý định đầu hàng nhưng rồi lại ngồi xuống và lại tiếp tục bắn phá làm chết và bị thương một số SVSQ và quân nhân co hửu của Trường. Trong số đó có Thiếu tá Vương Bá Thuận bị gãy chân, Trung tá Ông Nguyên Tuyền bị tử thuong v.v…
Mặc dù chưa từng ra chiến trận nhưng phải nói là tinh thần chiến đấu của các SVSQ rất là hào hùng anh dũng. Nhưng với súng trường không thể nào hạ được chiến xa, cho nên tôi gọi Đại úy Lê Văn Ngữ, Đại đội trưởng ĐĐ663/ĐPQ là đơn vị bảo vệ trường dùng súng M72 để hạ chiếc chiến xa này. Khi nó chạy tới khu Tiếp Tân gần miếu Tiên Sư thì bị ĐĐ663/ĐPQ bắn đứt xích nằm tại chỗ, nhưng súng trên pháo tháp vẫn còn quay bắn phá lung tung. Liền khi đó có một SVSQ thuộc Tiểu đoàn 1/SVSQ, đang ở phòng tuyến gần đó, nhanh nhẹn bò ra leo lên pháo tháp và liệng một quả lựu đạn vào bên trong xe tiêu diệt hẳn. Đại úy Ngữ lục soát trong xe lấy được ba khẩu súng còn đang bốc khói mang lên trình Đại tá Chỉ huy truởng và cho biết là họ đa bị khóa xích trong xe nên không thể nào ra đầu hàng được.
Và liền sau đó không lâu vào khoảng 10 giờ 20 phút thì nghe lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn chờ lệnh bàn giao. Sau đó Đại tá Minh ra lệnh cho tôi gọi cho các đơn vị ngưng chiến đấu. Tất cả mọi người đều rơi nước mắt khi nghe tin này, Đại úy Trác òa lên khóc. Tôi vẫn còn nhớ lời Đại tá Minh nói lúc đó: “Nhiệm vụ của chúng ta là quân đội là phải tuân hành lệnh thượng cấp, kêu đánh là đánh, kêu đầu hàng là đầu hàng”. Tôi bỏ về phòng thay đồ dân sự và lập tức lấy xe gắn máy phóng nhanh ra cổng, Đại úy Bão bên Liên đoàn Sinh viên đang đứng đâu gần đó liền nhảy lên theo. Chúng tôi vừa thoát ra khỏi cổng thì cộng quân cung vừa vô tới.
Khi chúng tôi ra đến xa lộ thì thấy đoàn xe thiết giáp và xe motolova của cộng quân đang từ từ tiến vô Sài Gòn mà không còn một lực luợng nào ngăn chặn nữa. Và vào lúc 11 giờ 30 phút chiếc chiến xa dẫn đầu cánh quân này đã tiến vô Dinh Độc Lập trong lúc Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các cuối cùng đang chờ đợi để bàn giao. Nhưng ngay vừa khi vừa vô đến Dinh Độc Lập thì quân CSBV liền hiện rõ nguyên hình là một đội quân xâm lăng từ miền Bắc vào, chứ không có gì là Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, do nhân dân miền Nam nỗi dậy, không có gì là hòa giải hòa hợp dân tộc, và không có gì là để bàn giao. Họ liền bắt nhốt tất cả từ Tổng thống Dương Văn Minh đến các Tổng Bộ trưởng và bắt Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo dẫn đến Kho bạc để tịch thâu 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam và cũng kể từ đó miền Nam Việt Nam đã thực sự mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt.
Để biết thêm chi tiết về những giờ phút cuối cùng của Trường Bộ Binh sau khi quân CSBV vào tiếp thu Huấn khu Thủ Đức, tôi xin trích đoạn trả lời của Đại tá Trần Đức Minh, vị Chỉ huy trưởng cuối cùng của Trường Bộ Binh, trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Văn nghệ Tiền Phong, nhân kỷ niệm 25 năm ngày miền Nam Việt Nam lọt vào vòng thống trị của cộng sản. Ông đã kể lại nhu sau:
… Khoảng hơn một giờ sau khi im tiếng súng, đại diện của một đơn vị Bắc Việt đến, họ yêu cầu tôi thi hành lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh để bảo đảm không nổ súng nữa. Tôi giao cho họ số vũ khí bắt được trên chiếc xe tăng bị bắn cháy và nói với họ lo chôn cất những người bị chết trong xe đó…
… Trong khi nói chuyện, đại diện quân Bắc Việt yêu cầu tôi triệu tập Chỉ huy trưởng của các Quân trường trong Huấn khu Thủ Đức đến gặp họ. Tôi cho biết không thấy Huấn khu trưởng cũng như những người có trách nhiệm khác đâu cả. Cuối cùng họ đành bảo tôi thay mặt Huấn khu bàn giao tất cả các trường hiện có ở Thủ Đức. Tôi cho lệnh tập họp ở Vũ đình trường, sau đó tuyên bố bàn giao Huấn khu Thủ Đức theo đúng chỉ thị của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
… Sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ có khoảng vài trăm người mặt mày ngơ ngác, bần thần. Rồi loáng một cái, chẳng còn ai mặc quân phục nữa. Sinh viên Si quan mặc đồ dân sự lủi thủi lê chân ra phía cổng chính. Tôi bùi ngùi nhìn theo tủi hổ… Chiều hôm đó đến lượt tôi trút bỏ quân phục và được yêu cầu “nghỉ riêng” ở trên lầu của tư dinh Chỉ huy trưởng. Trong khi một Bộ chỉ huy quân Bắc Việt ở dưới lầu. Đêm đó tôi lên cơn sốt, trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê tôi đã khóc thật nhiều. Lúc này tôi mới thắm thía cảm nghiệm được cái lẽ vô thường mà trước kia tôi chỉ hiểu được bằng lý trí…
… Định mệnh đã bắt tôi đóng vai tuồng “hàng thần lơ láo”, và đây là điều tủi nhục nhất trong đời tôi. Cho đến khi viết những dòng này niềm tủi nhục ấy vẫn hằn sâu trong tâm khảm tôi, và hẳn rằng khôn khuây cho đến khi sang bên kia thế giới.
Viết để nhớ lại ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Nguyễn Ngọc Thạch K20
KHL Long Thành 26-28.04 1975
https://quanlucvnchblog.wordpress.com/khl-long-thanh-26-28-04-1975/
KHL Long Thành 26-28.04 1975
Trận đánh tại khu huấn luyện Long Thành, ngày 26-28, tháng Tư năm 1975
Trường Bộ Binh là một quân trường chuyên đào tạo các sĩ quan trừ bị cho Quân Lực VNCH. Trước 1974, trường tọa lạc tại Thủ Đức, và từ đầu năm 1974 được dời về Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh Quốc Lộ 15 (Từ SàiGòn đi Vũng Tàu) cách quận lỵ Long Thành khoảng 5 km. Tại đây, trường Bộ Binh kết hợp với Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế của Lực Lượng Đặc Biệt (nơi huấn luyện Biệt Kích) để lập thành khu huấn luyện Long Thành. (Trường Thiết Giáp đặt tại căn cứ Bearcat cũ, nơi trú đóng của lực lượng Thái Lan khi tham chiến tại VN).
Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh kiêm nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng khu huấn luyện.Từ tháng Tư/75 Đại Tá Trần Đức Minh là chỉ huy trưởng Huấn Khu .
Trường Võ Bị Đà Lạt, sau khi di tản (ngày 30 tháng 3 năm 1975) qua ngã Sông Pha, Phan Rang, Bình Tuy và được chuyển vận bằng C-130 về SàiGòn, sau đó được tạm trú tại Trường Bộ Binh Long Thành và đã cho ra trường tại đây 2 khóa 28 và 29, còn lại các SVSQ thuộc các khóa 30 và 31.
Kế hoạch tấn công của CSBV:
Hướng Tây-Nam của cuộc tấn công vào Sài Gòn của CSBV được giao cho Quân Đoàn 2 BV. Lực lượng này gồm:
-Các sư đoàn Bộ Binh CSBV 325 và 304
-Lữ đoàn Pháo binh 164
-Lữ đoàn xe tăng và thiết giáp 203
-Sư đoàn phòng không 673
-Lữ đoàn công binh 219
-Trung đoàn đặc công 116.
Lực lượng này có khoảng 54 xe tăng, 35 thiết giáp, 223 xe kéo pháo; 87 khẩu 130 mm và 105 mm; 136 khẩu cao xạ. Tổng số quân lên đến 40 ngàn, do Tướng BV Nguyễn Hữu An chỉ huy và Tướng Lê Linh làm Chính Ủy.
Kế hoạch dự trù tấn công trên mặt trận chính bề ngang khoảng 80 km. Các mục tiêu chính gồm khu huấn luyện Long Thành (BV gọi là căn cứ Nước Trong), Chi khu Long Thành, Chi khu Nhơn Trạch để sau đó tiến 2 ngả một về Sài Gòn và một về Vũng Tàu.
Kế hoạch phòng thủ của Quân Lực VNCH:
Để đối phó với hướng tấn công này (VNCH xem là Đông-Bắc của SàiGòn), Quân Lực VNCH chỉ huy động được những lực lượng còn lại của SĐ 18 Bộ Binh (còn 2 Chiến đoàn), Lực lượng Xung Kích QĐ 3, riêng Lữ đoàn 1 Dù được giao nhiệm vụ giữ Bà-Rịa-Vũng Tàu.. thay vào đó là LĐ 258 TQLC.Tư Lệnh chiến trường là Tướng Nguyễn văn Toàn (Tư Lệnh QĐ III VNCH) cùng các Tướng Lê minh Đảo (Tư Lệnh SĐ 18), Tướng Trần Quang Khôi (Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích).
Các lực lượng cơ hữu của khu huấn luyện Long Thành gồm quân số cơ hữu và các SVSQ đang thụ huấn tại các Trường Bộ Binh, Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Kích Yên Thế.
Vào đầu tháng Tư năm 1975, Trường Bộ Binh có khoảng 4000 Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị thuộc các khóa gối đầu nhau; ngoài ra vào cuối năm 1974, Trường tiếp nhận khoảng 1000 quân nhân thuộc Quân Chủng Không Quân đang theo học các ngành tại HK phải về nước do cắt giảm viện trợ. Ngoài ra còn có các lớp Sĩ Quan khóa sinh gồm chừng 500 người. Số SVSQ Võ Bị Đà Lạt và quân nhân cơ hữu của Trường Võ Bị khoảng 500 người.
– Khu huấn luyện Long Thành được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Trần Đức Minh (quyền Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh thay thế Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi từ tháng Tư-1975).
– Trường Thiết giáp do Đại Tá Huỳnh văn Tám chỉ huy.
Về quân số cơ hữu của Trường Bộ Binh:
– Ngày 22 tháng Tư, 1975, một nửa quân số thuộc các đơn vị của Trường Bộ Binh cùng với những đơn vị thuộc các Trường Võ Bị QG Đà Lạt (từ Đà Lạt di tản về) , được lệnh rút về Huấn Khu Thủ Đức (Trường Bộ Binh Thủ Đức cũ). Một nửa quân số ở lại để phòng thủ Trường, lực lượng này do Đ/Tá Lê văn Phú, Tham mưu trưởng Huấn Khu chỉ huy. Trong lúc này, Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng cục trưởng TC Quân Huấn chỉ định Đ/Tá Lộ công Danh, Liên đoàn trưởng LĐ Sinh viên SQ Trường Bộ Binh làm Quyền Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt thay thế Tướng Lâm Quang Thơ.
-Lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Chi Khu Long Thành dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Hà văn Sáu, Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng.
Những diễn biến tại khu vực trong tháng Tư/1975:
Từ đầu tháng Tư/75, CQ đã mở những cuộc tấn công thăm dò vào Khu vực khu huấn luyện Long Thành, dùng đặc công xâm nhập vào các Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế nhưng bị đẩy lui sau khi chịu nhiều tổn thất.
Ngày 8 tháng Tư năm 1975, QĐ III VNCH được tăng phái Lữ đoàn 468 TQLC, TĐ 8 TQLC được giao nhiệm vụ đóng tại Long Thành để ngăn chặc địch quân từ hướng Long Khánh, giữ an ninh ngoại vi cho các căn cứ Long Bình và Bộ Tư Lệnh QĐ (Biên Hòa).
Ngày 10 tháng Tư: QĐ III được tăng phái thêm Lữ đoàn 4 Dù. LĐ này được giao trách nhiệm bảo vệ các khu vực Tam Hiệp-Biên Hòa-Long Thành.
Ngày 21 tháng Tư: VNCH rút khỏi Long Khánh từ chiều 20/4 và về đến địa điểm tập trung tại Đức Thạnh (Phước Tuy) vào chiều 22/4. Liên tỉnh lộ 2 được chọn làm lộ trình rút quân, dài khoảng 40 km từ Tân Phong, qua Đức Thành, Long Lễ. Cuộc rút quân được xem là thành công, bảo toàn lực lượng. LĐ 1 Dù được giao nhiệm vụ bảo vệ Quốc Lộ 15 , từ Long Thành đến Bà Rịa. SĐ 18 và các đơn vị tăng phái di chuyển vầ căn cứ Long Bình.
Diễn tiến trận đánh:
7 giờ sáng ngày 26 tháng Tư, Cộng quân bắt đầu tấn công thăm dò bằng các đơn vị trinh sát của SĐ 304 CSBV. Những cuộc chạm súng nhỏ diễn ra với các đơn vị tiền đồn của khu huấn luyện Long Thành.
Chiến đoàn 322 / LLXK QĐ III VNCH được lệnh di chuyển về Long Thành để tiếp cứu. Chiến đoàn 322 được tăng cường thêm một TĐ TQLC tiến theo QL 15 và đụng nặng với CQ trong khu vực rừng cao su, tại Dốc 47, bắn hạ 12 chiến xa BV (Tướng Trần Quang Khôi trong “Danh Dự và Tổ Quốc”).
5 giờ chiều 26/4, trận tấn công chính thức bắt đầu bằng cuộc pháo kích dữ dội của Cộng quân, sau đó SĐ 325 CSBV dùng bộ binh cùng sự yểm trợ của xe tăng đồng loạt tấn công vào các cứ điểm phòng thủ của khu huấn luyện nhưng không vượt nổi hàng rào phòng ngự kiên cố của Trường Bộ Binh. Riêng Trường Thiết Giáp và TT Huấn Luyện Yên Thế bị mất liên lạc sau đó. Quận Long Thành cũng bị tấn công, nhưng giữ vững vị trí trong đêm. Đ/Tá Huỳnh văn Tám, Chỉ Huy Trưởng Trường Thiết Giáp bị mất tích từ chiều tối 26/4 sau khi lọt vào ổ phục kích của CQ trên đường trở về sau cuộc họp bên Trường Bộ Binh. Tài liệu CSBV ghi lại: Trong trận tấn công vào Trường Thiết Giáp, CQ chỉ hoàn toàn làm chủ vào chiều 29/4 với sự thiệt hại gần 200 quân.
Sáng 27 tháng Tư: CSBV dùng SĐ 325 tấn công vào sườn trái của vòng đai phòng thủ khu huấn luyện đồng thời SĐ 304 tấn công vào hướng chính diện. Các mũi tấn công này đều có xe tăng và pháo yểm trợ.
Cũng từ 5 giờ chiều, CQ dùng Trung đoàn 101 (SĐ 325 CSBV) tấn công quận lỵ Long Thành, dùng Tr/Đ 46/325 tiến vòng để chiếm ngã ba Phước Thiền và Tr/Đ 18/325 bao vây Bỉm Sơn. Tất cả các cứ điểm trên đều do ĐPQ và Nghĩa quân Long Thành chống giữ.
Một lực lượng khoảng 2 ĐĐ /TĐ 1-TQLC cũng hoạt động trong khu vực ngã ba QL15 và Liên tỉnh lộ 10 (gần đầu dốc 47). Tại chốt phòng thủ này, LL TQLC có 2 M-48 yểm trợ đã chống trả cuộc tấn công của CQ cho đến chiều 28/4 mới bị tràn ngập.
Theo Vũ Trọng Hóa, TM trưởng của Tr/Đ 18/ SĐ 325 CSBV thì CQ mở đầu cuộc tấn công bằng một cuộc pháo kích dữ dội gần 700 đạn pháo bắn vào Chi khu Long Thành trong vòng nửa giờ: Loạt đạn đầu bắn phá khu vực Cầu Xéo và loạt thứ nhì vào Quận đường và khu vực đặt 2 đại bác 105 ly của Quận. Bộ binh có xe tăng yểm trợ đồng loạt tấn công. Chi khu Long Thành phản ứng bằng pháo yểm trợ từ Bến Sắn và Phước Hòa, tuy nhiên sau đó CSBV đã tập trung pháo binh, bắn trên 2000 quả đạn vào các điểm đặt pháo của VNCH. Sáu giờ chiều, xe tăng CSBV (thuộc Lữ đoàn 203/325) tiến vào đường Nguyễn An Ninh, Long Thành nhưng bị chặn tại đây. Lực lượng địa phương VNCH, luồn theo các ngõ hẻm để tập kích. Trận đánh kéo dài đến 10 giờ đêm, CSBV tiến chiếm các tiền dồn quanh thị xã như cầu Quán Thủ, Ngã Ba Cầu Xéo, Liên Kim Sơn, các chốt Cầu Đen, Bàu Cá. Địa Phương Quân Long Thành bắn cháy nhiều xe tăng của CSBV (trong đó một chiếc ngay tại cổng chính dinh quận, một chiếc khác bên chi khu). Trung Tá Hà văn Sáu rút ra bên ngoài, xin chi viện từ tiểu khu Biên Hòa nhưng không được đáp ứng và vẫn tiếp tục chiến đấu đơn độc chống trả lực lượng CQ. Mãi đến 4 giờ 30 chiều ngày 27, CSBV mới chiếm được khu vực Quận Long Thành.
Lực lượng còn lại của Chi Khu rút về Ấp Thái Lạc và cố thủ tại đây đến chiều 28 tháng Tư. (Vũ Trọng Hóa ghi lại cuộc kháng cự tại Ấp Thái lạc gậy thiệt hại nặng cho Tiểu đoàn 1/ Trung đoàn101 CQ, trong đó gần 100 cán binh bị hạ kể cả Tiểu đoàn trưởng CQ Nguyễn Ánh Dương).
Đêm 27 tháng Tư, Cộng quân tập trung lực lượng quyết thanh toán Trường Bộ Binh. Sáng 28, trước tình hình nguy ngập do lực lượng quá đông của quân CSBV, Đ/Tá Lê văn Phú quyết định rút quân và lực lượng còn lại lui về Huấn Khu Thủ Đức.
Tài liệu của CSBV ghi lại: Trong ngày 27 tháng Tư, SĐ 5 KQVNCH dùng 115 phi vụ để oanh kích vào đội hình của Cộng quân và bị hạ đến 2 F-5, 4 A-37, 3 Skyraider A-1 và 1 UH-1 A. Phối kiểm với các phi công KQ VNCH thì không ai biết gì về con số phi vụ cũng như con số phi cơ bị hạ?
Về phần Skyraider A-1: Đại Úy Trần văn Phúc, người bay những phi vụ A-1 cuối cùng trên không phận Sài Gòn cho biết: ‘Sau 6 tháng đình động 2 Phi đoàn A-1 được lệnh bay lại, trưa ngày 3 tháng Tư, 1975 các phi công PĐ 518 bắt đầu bay ‘quen tay’ và đến 5 tháng Tư được biệt phái xuống Cần Thơ, sau đó 19 tháng Tư trở lại Biên Hòa. Ông cho biết hầu như không còn sự phối hợp giữa KQ và Bộ Binh như trước: trong nhiều phi vụ tuy bay bao vùng tại Long Khánh, Ông phải tự tìm ‘mục tiêu’ (?) và tùy nghi thả bom vào những vùng khả nghi có tập trung quân của CSBV. Trong ngày 27 tháng Tư, các phi vụ của Đ/Úy Phúc và các phi công khác bay trên vùng trời Long Bình nhưng không được sử dụng? Chiếc A-1 sau cùng bị bắn hạ là chiếc do Th/Tá Trương Phùng bay ngày 29 tháng Tư trên không phận Sài Gòn.
Các F-5 hầu như không còn hoạt động hành quân vảo giai đoạn cuối cùng này. Một số phi vụ A-37 được điều hành từ Cần Thơ. Một lý do được giải thích là ‘BV đã sử dụng hỏa tiễn tầm nhiệt Strella và súng phòng không có radar điều khiển nên F-5 và A-37 không thể cất cánh oanh tạc được’ (Hà Mai Việt trong Thép và Máu, trang 204).
Không có những ghi nhận chính thức về hoạt động của các trực thăng võ trang. Riêng trong bài “Những ngày cuối trên đất Đồng Nai”, Phó Tỉnh Trưởng Biên Hòa Nguyễn Nhơn ghi lại: ‘Sáng 28/4, từ văn phòng nhìn về phía núi Châu Thới, chiếc trực thăng đang quần đảo, phóng rocket ì ầm, yểm trợ lực lượng dù (?) đánh dẹp chốt đặc công VC ở chân núi’.
Đ/Úy Nguyễn văn Việt TĐ 46 Pháo Binh (theo CĐ 322/LLXK) ghi lại trong trận đụng độ ở Dốc 47: ‘Gần trưa, một chiếc phản lực bay qua đầu chúng tôi, rồi nhào xuống thả một trái bom, rơi trúng phia bên kia đường cách bộ CH Chiến đoàn khoảng 200m..’ (Nguyễn văn Việt trong “Pháo thủ 46 kể chuyện cũ”)
Một sĩ quan thuộc TĐ 1/ TQLC kể lại: ‘..vì áp lực mạnh của cánh quân CSBV từ Bình Tuy băng qua, KQ ta yểm trợ bằng các phi tuần A-37 dội bom xuống mặt trận. Một trái bom đã rơi vào làn ranh của hai bên..’ (Tháng Tư ra trường..)
Trường hợp TĐ 82 BĐQ, được Th/Tá Vương Mộng Long TĐT ghi lại trong Hồi Ký, “Tháng Tư lại về”: ‘Ngày 28 tháng Tư, TĐ đang nghỉ dưỡng quân tại Long Bình thì được lệnh vào vùng hành quân tại phía sau Trường Bộ Binh Long Thành. Quân số do đi phép và tập trung bất ngờ nên chỉ còn 161 người lên đường với nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng Bắc tiến về. TĐ đóng quân tại một ngọn đòi nhỏ là ‘một tiền đồn cũ, có 3 lô cốt nhỏ, không hầm hố địa đạo, không hàng rào.. nên chỉ chất những viên đá tổ ong thành một chiến lũy cấp thời..’ Ngay tối 28, CQ huy động lực lượng Bộ Binh có xe tăng yểm trợ, dùng xe chiếu sáng chiến trường để tấn công.
Sau 3 đợt tấn công dữ dội, và 6-7 tăng bị bắn cháy. CQ đã tràn ngập vị trí phòng thủ của TĐ 82 BĐQ. TĐ hết M-72, lựu đạn và chiên đấu đơn độc không có phi-pháo yểm trợ. Còn lại 107 người, tìm đường rút về Căn cứ Long Bình qua ngã Hố Nai (Biên Hòa) Cuộc rút lui bi thảm này, vượt các ổ phục kích và pháo của Cộng quân để cuối cùng chỉ còn lại 67 người và tan hàng tại Cầu Hàng vào sáng 30 tháng Tư…
Tuyến phòng thủ Huấn Khu Long Thành được xem là bỏ ngỏ từ ngày 29/ 4. CQ tiến về SàiGòn, nhưng vẫn gặp sự kháng cự của những đơn vị còn lại của Quân Lực VNCH. Những trận đánh cuối cùng tiếp diễn dù không còn ‘Đại bàng’…như các trận Cầu Rạch chiếc, trận khu huấn luyện Thủ Đức…”
Ghi thêm:
Đại Úy Phúc (Phi Long 51) cho biết thêm một số chi tiết về A-1 trong bài như sau:
‘Sau khi trở về Biên Hòa ngày 19 tháng Tư năm 1975, chúng tôi không còn bay yểm trợ tiếp cận (Close Air Support) cho quân bạn mà phải bay bao vùng hàng nhiều giờ rồi được các phi cơ quan sát (L-19) chỉ điểm oanh tạc những vùng nghi ngờ đóng quân của CSBV.
Chỉ riêng ngày 27/4/1975 vào khoảng 2 giờ trưa, Tôi cùng Đ/Úy Trần Công Quận bay bao vùng ở Long Khánh, vì không có phi cơ quan sát, tôi phải tự tìm mục tiêu và oanh tạc đoàn xe công voa đang di chuyển từ Bắc xuống Nam ở Trảng Bom.
Bây giờ tôi mới hiểu lý do tại sao chúng tôi bị bắn bởi hàng rào phòng không dày đặc, chỉ cách phi cơ tôi vài mươi mét tại Long Bình ở cao độ 5000 bộ…
Chúng đặt hơn 30 khẩu phòng không (có radar hướng dẫn) từ 23 ly, 37 ly và 57 ly rải rác khắp vùng Long Khánh để bảo vệ các cánh quân Bộ Binh tiến chiếm khu huấn luyện Long Thành. Rất tiếc chung tôi hoàn toàn không hay biết, thật quá phí số bom này và tôi xin thành thật xin lỗi toàn thể chiến hữu tại khu huấn luyện Long Thành… (Điện thư trao đổi giữa Đ/Úy Phúc và tác giả Trần Lý ngày 20/5/1975)
No comments:
Post a Comment